Mùa muối đắng

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
Chỉ chưa đầy 1.000đ/kg muối, người làm muối ở Bình Định đang đối mặt với thua lỗ. Trên đồng muối trắng, những giọt mồ hôi của diêm dân hòa lẫn những giọt nước mắt nghẹn ngào nhỏ xuống đồng nước. Nước nào cũng đắng chát.
Phận muối, phận người
Chiếc nón lá đã sờn quai không đủ để bớt đi cái nắng trưa hè bỏng rát, ông Tánh (57 tuổi, xã Cát Khánh, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định) vỗ bàn tay gầy guộc đen nhẻm vì nắng vào lưng. Chứng đau lưng nhiều năm của ông ảnh hưởng không nhỏ tới việc cào muối nhưng ông vẫn gắng. “Mấy đời dân đây làm muối, cái nghề cái nghiệp của tổ tông truyền lại nhiều đời rồi. Giờ tui làm, sợ không truyền được cho đời sau nữa vì giá muối thấp quá. Bán 1 ký muối không mua nổi gói mỳ tôm. Còn ai ráng được nữa”, ông Tánh than thở.
Xung quanh ông Tánh, nhiều diêm dân khác cũng đang vùi mình trong màu trắng của muối giữa nắng rực lửa và trời xanh ngắt không mây. Những giọt mồ hôi nhỏ xuống đồng muối. Vào đầu giờ chiều, dưới cái nắng như đổ lửa, các diêm dân tỏa ra đồng muối, người cào, người gánh tất bật cho việc thu hoạch muối.

Gồng mình mưu sinh trên đồng muối.
Gồng mình mưu sinh trên đồng muối.
Với nghề làm muối, 3 giờ sáng họ đã phải dậy. Đến buổi trưa là thời gian nghỉ ngơi, họ ở đồng với những bữa ăn vội vã, cốt chống đói cho công việc nặng nhọc. Người xách, người mang những gô cơm, chiếc bánh, vài ba quả chuối... ăn nhanh giữa đồng nắng cháy để kịp tiến độ làm việc. Trong bữa cơm, thức ăn chỉ là vài con cá mặn kho vội, nồi canh lõng bõng nước. Vất vả là thế nhưng những diêm dân ở Phù Cát suốt bao năm nay vẫn bám những ruộng muối để mưu sinh.
Ông Thỏa, người có gần 40 năm với nghề bảo rằng: “Khổ trăm bề nhưng thu nhập không đáng bao nhiêu, nghề này chỉ cày cuốc vào những ngày nắng, đến ngày mưa phải làm thuê làm mướn việc khác để sống. Nhọc nhằn là thế nhưng vẫn có những con người đã bám trụ với nghề muối mấy chục năm nay. Nhưng, giờ muối bán không được, giá lại thấp, chỉ 800đ/kg mà cũng ít người tới mua nên người làm muối càng thêm nhọc”.
Từ tháng Giêng đến nay, do được nắng, nhiều diêm dân ở các huyện Phù Cát, Phù Mỹ (Bình Định) tranh thủ đưa nước mặn vào ruộng muối, hàng tấn muối làm ra không ai đến mua. Không chỉ muối làm theo cách truyền thống, phơi trên đất bùn mới rớt giá mà ngay cả muối được sản xuất trên mô hình bằng công nghệ lót bạt cũng chịu chung cảnh ngộ. Diêm dân đứng ngồi không yên vì sản lượng muối thu hoạch tăng cao nhưng sức mua lại giảm. Muối được chất đống trên các cánh đồng mà không thấy thương lái nào đến hỏi.

Thời điểm này thời tiết thuận lợi, diêm dân có thể làm muối tốt hơn.
Thời điểm này thời tiết thuận lợi, diêm dân có thể làm muối tốt hơn.
Dù vất vả nhưng nhiều người vẫn bám trụ giữ nghề.
Dù vất vả nhưng nhiều người vẫn bám trụ giữ nghề.
Đưa tay lau giọt mồ hôi hòa với vị mặn của muối trên mặt, chị Nguyễn Thị Lan buồn rầu kể: “Trong khi xăng, dầu, phí vận chuyển đều lên giá, riêng muối giá lại xuống thấp, diêm dân lỗ nặng, không đủ chi phí trả tiền thuê nhân công cào muối. Làm muối vất vả quá mà bán giá thấp nên khó khăn lắm”.
Chông chênh đồng muối
Theo thống kê tại tỉnh Bình Định, hiện có 2 huyện Phù Mỹ, Phù Cát sản xuất muối với tổng diện tích hơn 132 ha, trong đó hơn 70 ha sản xuất muối truyền thống, 51 ha sản xuất muối trải bạt và 11 ha sản xuất muối công nghiệp. So với cùng kỳ năm ngoái, diện tích sản xuất muối tại tỉnh Bình Định đã giảm hơn 20 ha. Trong đó huyện Phù Mỹ giảm 19,58 ha và huyện Phù Cát giảm 2,2 ha. Như tại xã Cát Minh có tới 65 ha. Giá muối bán ra thị trường thấp, chi phí đầu tư cao, việc sản xuất muối không hiệu quả nên một số ruộng của người dân đang bỏ hoang.
Nghề muối rất cơ cực, để đưa ruộng muối vào sản xuất, diêm dân phải có những bước chuẩn bị hết sức công phu với những việc cải tạo nền đất, nạo vét, phơi bùn, nện chắc nền ruộng. Một vụ muối người dân phải mất 1-2 tháng để chuẩn bị. Theo nhiều diêm dân, để sản xuất muối trắng, người dân phải đầu tư khoảng 60 triệu đồng/1.000 m2 để lót bạt, chưa kể chi phí xăng dầu bơm nước mặn vào ruộng, thuê mướn công nhân làm bờ bao, san bằng mặt ruộng... và đến khi thu hoạch còn phải thuê công nhân cào, vác muối với giá 5.000 đồng/gánh 30 kg. Nhưng, thực tế là với phương thức sản xuất theo hướng truyền thống, hạt muối làm ra chất lượng kém, lẫn tạp chất nhiều nên giá thành thấp, khó tiêu thụ.
Trung bình giá muối sản xuất truyền thống 800 đồng/kg, giá muối trải bạt 1.000 đồng/kg. Hiện, một số nơi ở huyện Phù Cát, giá muối giảm còn 500 đồng đến 600 đồng/kg, trong khi tiền công vận chuyển cao, nhiều ruộng muối lại ở khá xa điểm mua nên không đủ tiền trang trải chi phí. Dầm mưa dãi nắng làm ra hạt muối để rồi không bán được, hầu hết người làm muối đều thua lỗ nặng, nhiều người phải ôm nợ do đã vay mượn của người thân, ngân hàng để đầu tư sản xuất. Những ruộng muối dần không còn trai tráng, họ đã bỏ đi tứ xứ làm ăn, còn những người già buộc phải ra đồng vì không còn gì khác để làm.

Khi ánh bình minh vừa ló dạng, diêm dân đã ra đồng.
Khi ánh bình minh vừa ló dạng, diêm dân đã ra đồng.
Không chỉ với những người làm muối, mà cả những người làm công cũng đầy âu lo. Trước tình hình giá muối xuống dốc, các chủ ruộng sẽ không thuê người làm nữa, muối bị tồn kho, không bán được thì sẽ không có tiền thuê nhân công hoặc tiền nhân công cũng bị giảm sút.
 Anh Thuận (32 tuổi, ở thôn Ngãi An, xã Cát Khánh, huyện Phù Cát), một nhân công làm thuê trên ruộng muối lo lắng cho hay: “Một gánh muối 35kg, có giá 25.000 đồng, tính ra 1kg muối giá chưa đạt nổi 700 đồng. Cả ngày “rang” mình trên những cánh đồng muối trắng nóng như thiêu đốt vậy mà công xá không được bao nhiêu. Trước muối được giá, mỗi tháng làm tiền công của tôi cũng 6-7 triệu. Mấy tháng nay tiền công bị giảm rất nhiều. Giờ mỗi tháng chỉ được hơn 3 triệu đồng. Chủ thuê cũng khốn khó, mình không thể đòi hỏi nhiều hơn được. Mọi chi phí trang trải trong gia đình phụ thuộc rất nhiều vào tiền công của mình. Với số tiền hơn 3 triệu, để nuôi gia đình có 2 đứa con nhỏ quả là khó khăn. Chỉ mong giá muối tăng lên một chút, người làm muối bớt đi nỗi lo”.

Cơn dông đến bất ngờ, ông Thỏa vội vã cào muối.
Cơn dông đến bất ngờ, ông Thỏa vội vã cào muối.
Hiện tại, tỉnh Bình Định có 2 đơn vị chế biến muối thực phẩm gồm Công ty Cp Muối và Thương mại miền Trung (Chi nhánh Bình Định) và Công ty Cp Muối và Thực phẩm Bình Định, với tổng công suất khoảng 26.000 tấn/năm nhưng thực chất tổng sản lượng muối chế biến được trong năm 2020 là hơn 6.072 tấn, chẳng thấm vào đâu so với tổng sản lượng muối trên địa bàn khoảng 24.675 tấn niên vụ 2020.
Trên mênh mông đồng muối trắng, vẫn thấp thoáng bóng những người đội nắng cào muối. Nhìn những hạt muối trắng tinh khiết, mang hương vị mặn mòi của biển, ít ai nghĩ rằng, để có được những hạt muối đó thì diêm dân phải trải qua bao nỗi nhọc nhằn. Nhưng rồi, với giá muối thấp và bấp bênh hằng năm như thế này, liệu họ có còn tiếp tục gắn bó với ruộng muối?
Trời chiều chuyển cơn dông, diêm dân ra cào muối vội vã. Dù lắm gian truân nhưng công việc này đã nuôi sống bao con người ở mảnh đất này từ nhiều đời nay.
Theo thống kê của Cục Chế biến nông - lâm - thủy sản và nghề muối, cả nước hiện có 21 tỉnh, thành phố, gồm 41 huyện, 118 xã có nghề sản xuất muối. Theo thống kê năm 2016, diện tích sản xuất muối cả nước ước đạt 14.839 ha. Trong đó, diện tích sản xuất muối thủ công đạt 10.446 ha; diện tích sản xuất muối công nghiệp đạt 4.313 ha. Không chỉ diêm dân làm muối ở Bình Định, mà các địa phương có nghề làm muối như ở Bạc Liêu, Bến Tre, Quảng Ngãi hiện muối bán tại ruộng với giá khoảng 600-900 đồng/kg. Với mức giá này, trừ mọi chi phí, người làm muối lỗ nặng.
Minh Ngọc (cand.com.vn)

Có thể bạn quan tâm

Một góc trung tâm xã Kon Chiêng.

Đánh thức Kon Chiêng

(GLO)- Từ quốc lộ 19 rẽ vào tỉnh lộ 666 khoảng 40 km thì đến xã Kon Chiêng. Hai bên đường là những triền mía xanh mát, thấp thoáng những mái nhà sàn trong không gian xanh thẳm của núi rừng, gợi về một Kon Chiêng đang vươn mình đổi thay.

Những chiếc bè nuôi thủy sản của ngư dân bị sóng đánh vỡ tan, trôi dạt ven biển.

Xác xơ làng chài sau cơn bão dữ...

(GLO)-Sau cơn bão dữ Kalmaegi (bão số 13), những làng chài vốn yên bình, đầy sinh khí bỗng chốc trở nên xác xơ, trơ trọi và ngổn ngang chỉ sau vài giờ bão quét qua. Cảnh quan rồi sẽ dần hồi phục, nhưng những mất mát, tổn thất vẫn sẽ đè trĩu trên đôi vai người dân ven biển rất lâu nữa...

Cảnh hoang tàn, đổ nát ở làng chài Nhơn Lý, Gia Lai. Ảnh: Đức Nhật

Gượng dậy sau bão

Bão Kalmaegi (bão số 13) đã tan, trên dải đất ven biển Gia Lai, Đắk Lắk, người dân lặng lẽ nhặt lại từng tấm tôn, viên ngói, gom góp chút bình yên từ đống hoang tàn.

Giữa tầng mây giữ trời

Giữa tầng mây giữ trời

(GLO)- Đỉnh Hàm Rồng cao hơn 1.000 m so với mực nước biển. Sườn núi sương mờ bao phủ này là nơi cán bộ, chiến sĩ Đài Quan sát thuộc Đại đội Thông tin (Phòng Tham mưu, Lữ đoàn Pháo phòng không 234, Quân đoàn 34) đồn trú.

Sống chậm với đĩa than trong thời đại số - Kỳ 1: Sự hồi sinh của dòng đĩa Vinyl

Sống chậm với đĩa than trong thời đại số - Kỳ 1: Sự hồi sinh của dòng đĩa Vinyl

Trong thời đại mà một thiết bị đeo tay có thể chứa đến 60 triệu bài hát, việc lựa chọn nghe nhạc từ một chiếc đĩa than tưởng như là lỗi thời. Nhưng thực tế, đó lại là biểu hiện của một xu thế tìm lại sự nguyên bản, chậm rãi và thật lòng trong trải nghiệm thưởng thức.

Sợi tơ mong manh kết nối trăm năm

Sợi tơ mong manh kết nối trăm năm

Khi nói đến sưu tầm đồ cổ ở Việt Nam, người ta thường nghe tới đồ gốm, sành sứ, hay đồ gỗ… chứ ít ai biết đến những món đồ vải mà qua đó thể hiện tay nghề thêu huy hoàng, vang danh thế giới của người Việt hàng trăm năm trước.

Tiến sĩ Nguyễn Minh Kỳ lọt Top 2% nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới năm 2025.

Tiến sĩ Nguyễn Minh Kỳ và hành trình vào top 2% nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới

(GLO)- Với nghiên cứu về ô nhiễm vi nhựa và công nghệ xử lý nước thải, Tiến sĩ Nguyễn Minh Kỳ (SN 1985, Phân hiệu Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh tại Gia Lai) được Đại học Stanford (Mỹ) và Nhà xuất bản Elsevier vinh danh trong top 2% nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới năm 2025.

Người lưu giữ hàng trăm “báu vật” Chư A Thai

Người lưu giữ hàng trăm “báu vật” Chư A Thai

(GLO)- Ở xã Chư A Thai (tỉnh Gia Lai), có một người đàn ông gắn bó cả cuộc đời với những “ký ức triệu năm” còn sót lại dưới lòng đất. Gần 25 năm qua, ông Rcom Sin đã lặng lẽ sưu tầm và trân trọng gìn giữ rất nhiều khối gỗ hóa thạch kết tinh của đất trời.

Sê San: Sông kể chuyện đời…

Sê San: Sông kể chuyện đời…

(GLO)- Dòng Sê San miệt mài chở nặng phù sa; sóng nước bồng bềnh không chỉ kể câu chuyện mưu sinh, bảo vệ phên giậu, mà còn gợi mở tương lai phát triển bền vững, góp phần khẳng định vị thế của vùng biên trong hành trình dựng xây quê hương, đất nước.

Ông Ksor Yung có lối sống trách nhiệm, gần gũi nên được mọi người quý mến. Ảnh: R’Ô Hok

Ksor Yung: Từ lối rẽ sai lầm đến con đường sáng

(GLO)- Từ một người từng lầm lỡ, ông Ksor Yung (SN 1967, ở xã Ia Rbol, tỉnh Gia Lai) đã nỗ lực vươn lên trở thành người có uy tín trong cộng đồng. Ông tích cực tham gia vận động, cảm hóa những người sa ngã, góp phần giữ gìn an ninh trật tự và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc.

Thôn Lao Đu giữa bát ngát núi rừng Trường Sơn

Lao Đu đã hết lao đao

Nằm bên đường Hồ Chí Minh huyền thoại, cuộc sống của hơn 150 hộ dân thôn Lao Đu, xã Khâm Đức, TP Đà Nẵng nay đã đổi thay, ngôi làng trở thành điểm du lịch cộng đồng giữa bát ngát núi rừng. 

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

(GLO)- Giữa bao thiếu thốn của vùng đất Pờ Tó, có một người thầy lặng lẽ, bền bỉ gieo yêu thương cho học trò nghèo. Thầy không chỉ dạy chữ mà còn khởi xướng nhiều mô hình sẻ chia đầy ý nghĩa như: “Tủ bánh mì 0 đồng”, “Mái ấm cho em”, “Trao sinh kế cho học trò nghèo”.

null