Ký ức những năm tháng phục vụ kháng chiến

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

(GLO)- Dù không trực tiếp cầm súng chiến đấu nhưng những người từng tham gia vận chuyển hàng hóa thiết yếu, vận động quyên góp lương thực phục vụ cách mạng cũng đã đóng góp không nhỏ vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

1. Tôi gặp ông Nguyễn Văn Hòa (tổ 4, phường Hoa Lư, TP. Pleiku) trong một buổi chiều cuối tháng 8. Dù đang bị sốt sau khi tiêm vắc xin phòng Covid-19 nhưng khi biết tôi muốn tìm hiểu về những năm tháng tham gia vận chuyển hàng hóa phục vụ kháng chiến, ông Hòa sẵn sàng tiếp chuyện. Có lẽ trong ông vẫn vẹn nguyên cảm xúc về một thời đầy gian truân nhưng tự hào của mình.

Sinh năm 1945 tại xã Phước Sơn (huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định), năm 16 tuổi, ông Hòa tham gia du kích xã với nhiệm vụ canh gác, đào hào, cắm chông chống địch đi càn lấn chiếm vùng giải phóng. Đến tháng 12-1964, ông chuyển lên công tác tại Đội vận chuyển chủ lực trực thuộc Tiểu ban thương nghiệp (Ban Tài mậu tỉnh Gia Lai) với nhiệm vụ chính là thu mua và vận chuyển hàng hóa phục vụ kháng chiến.

 Nay tuổi cao, sức yếu nhưng ông Nguyễn Văn Hòa (tổ 4, phường Hoa Lư, TP. Pleiku) vẫn có nhiều đóng góp tích cực cho các phong trào, hoạt động ở địa phương. Ảnh: Nhật Hào
Tuổi cao, sức yếu nhưng ông Nguyễn Văn Hòa (tổ 4, phường Hoa Lư, TP. Pleiku) vẫn có nhiều đóng góp tích cực cho các phong trào, hoạt động ở địa phương. Ảnh: Nhật Hào


Có sức khỏe lại nhanh nhẹn, ông cùng các anh em trong đơn vị đã vượt hàng trăm cây số đường rừng, lội qua nhiều con sông để đến các cửa hàng ở Gia Lai và Bình Định thu mua hàng hóa mang về phục vụ cán bộ, bộ đội. “Chúng tôi mất 4 ngày mới xong một chuyến vận chuyển hàng trong tỉnh và mất 7 ngày nếu vận chuyển hàng ngoài tỉnh. Mỗi lần về, chúng tôi cõng trên lưng 30-40 kg gạo, nước mắm, đường, muối, vải… Nhiều lần gặp trời mưa lớn, việc vận chuyển khó khăn hơn, nhất là lúc nước sông dâng cao, chúng tôi không thể đi qua, phải ngủ lại trong rừng. Nhiều người vì dầm mưa, sốt rét rừng hành hạ tưởng chừng không qua khỏi. Nhưng tình yêu thương, giúp đỡ giữa đồng chí, đồng đội đã trở thành động lực để mọi người vượt qua tất cả. Ngày 28-6-1968, tôi vinh dự được đứng vào hàng ngũ của Đảng”-ông Hòa tự hào kể.

Bên cạnh những vất vả trong công việc vận chuyển hàng hóa, ông Hòa và đồng đội còn phải đối mặt với nhiều hiểm nguy khi bị địch thường xuyên phục kích. Để hạn chế rủi ro, đội vận chuyển của ông thường phải đi thu mua hàng ban đêm. Trước khi xuống núi, đúng 5 giờ chiều, đoàn của ông phải dừng ở ngọn núi cao nhất rồi dùng ống nhòm quan sát. Nếu thấy cơ sở của ta cầm chiếc đèn dầu đi qua đi lại 3 lần là biết có địch đang phục kích, còn 2 lần là an toàn. Thế nhưng, đoàn của ông vẫn không tránh được những lần bị kẻ thù tấn công. Một ngày cuối năm 1970, khi đang trên đường đi lấy hàng, đoàn của ông bị địch phục kích bắn chết 1 đồng đội nữ. Ngày hôm sau, ông và đồng đội quay trở lại để chôn cất đồng đội. “Vì sợ địch cài mìn trong người chị ấy, chúng tôi buộc dây vào chân rồi nấp ở gờ đất cao để kéo thi thể chị đi. Sau khi kéo khoảng vài mét không thấy có dấu hiệu bị cài mìn, chúng tôi mới dám tiến lại gần. Chôn cất chị vừa xong thì trực thăng của địch bay tới bắn xối xả, anh em chúng tôi phải nhanh chóng tìm cách thoát thân”-ông Hòa kể.

Năm 1971, ông được rút về làm thủ kho, thủ quỹ thu mua hàng hóa tại chốt xã Trang (nay thuộc huyện Đak Đoa). Đến tháng 9-1971, địch oanh tạc dữ dội không thể hoạt động được, tỉnh điều hết cán bộ tại cửa hàng khu 6 sang cửa hàng thương nghiệp khu 7 (nay là huyện Kông Chro). Tại đây, ông và mọi người tiếp tục nhiệm vụ tới vùng La Hai (huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên) mua hàng hóa về phục vụ kháng chiến. Một ngày cuối tháng 9-1971, khi vừa xuống tới khu vực gần điểm lấy hàng, đoàn của ông bị địch phục kích khiến ông bị thương ở đùi trái. Đau đớn vì vết thương quá nặng nhưng để đảm bảo an toàn, ông tiếp tục bò vào rừng rồi kiệt sức nằm lại. Đến sáng hôm sau, ông được cán bộ thị trấn La Hai tìm thấy và đưa về trạm y tế điều trị.

Sau khi xuất viện, ông Hòa trở về khu 7 tiếp tục cùng với mọi người làm nhiệm vụ thu mua, vận chuyển hàng hóa phục vụ kháng chiến. Năm 1973, ông được rút về để nhận nhiệm vụ phụ trách kho chứa hàng hóa chi viện từ miền Bắc. Số hàng hóa tiếp nhận được phân bổ cho các đơn vị bộ đội, cơ quan của tỉnh. Dịp này, ông được Ban Tài mậu khen thưởng vì đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ năm 1973.

2. Chiến tranh đã lùi xa nhưng ký ức về những năm tháng tham gia vận động lương thực phục vụ kháng chiến vẫn khắc sâu trong tâm khảm ông Đỗ Ngọc Thạch (tổ 8, phường Hoa Lư, TP. Pleiku). Cuối năm 1965, sau 1 năm làm du kích tại xã nhà Ia Dơk (huyện Đức Cơ), ông Thạch chuyển lên công tác tại Ban Lương thực khu 1 (huyện Nam Kon Plông (cũ), nay là các xã phía Bắc huyện Kbang từ Kon Pne đến Sơn Lang). Thời điểm đó, Ban có 10 người, nhiệm vụ chính là vận động người dân trên địa bàn tăng gia sản xuất để đóng góp lương thực cho kháng chiến. Đồng thời, trực tiếp khai hoang trồng lúa lấy lương thực phục vụ đời sống của cán bộ, nhân viên trong đơn vị.

 Ông Đỗ Ngọc Thạch (bìa trái, tổ 8, phường Hoa Lư, TP. Pleiku) luôn giữ gìn những kỷ vật thời kỳ tham gia vận động lương thực phục vụ kháng chiến. Ảnh: Nhật Hào
Ông Đỗ Ngọc Thạch (bìa trái, tổ 8, phường Hoa Lư, TP. Pleiku) luôn giữ gìn những kỷ vật thời kỳ tham gia vận động lương thực phục vụ kháng chiến. Ảnh: Nhật Hào


“Khi ấy, tôi được phân công phụ trách tại 2 xã Kon Pne và xã Mới. Ngay sau khi nhận nhiệm vụ, tôi đi khảo sát địa bàn, nắm tình hình sản xuất của bà con; tổ chức họp dân và vận động mọi người ủng hộ lương thực cho kháng chiến. Sau đó, tôi vận động bà con vào rừng chặt cây làm kho chứa thóc. Để việc vận động đạt hiệu quả, tôi thực hiện tốt phương châm “3 cùng” (cùng ăn, cùng ở và cùng sản xuất) với bà con. Trong thời gian này, tôi tự học tiếng Bahnar để thuận lợi cho công tác tuyên truyền, vận động bà con ủng hộ cách mạng”-ông Thạch nhớ lại.

Ông Thạch cho biết, địa bàn ông phụ trách tuy là vùng hậu cứ vẫn thường xuyên bị quân địch bắn phá. Vì thế, kho thóc, lán trại của ông cũng như các cán bộ khác đều được dựng trong rừng sâu. Bên cạnh mỗi kho thóc đều đào hầm để trú ẩn khi không may bị địch bắn phá. Mỗi năm, ông và các cán bộ đều phải di dời lán trại 2-3 lần để tránh địch phát hiện. “Một ngày đầu năm 1970, địch đưa quân từ An Khê vào càn quét. Khi ấy, kho lương thực của huyện bị địch bắn cháy. May mắn là anh em đã trốn thoát xuống hầm”-ông Thạch kể.

Năm 1970, ông Thạch được điều về công tác tại Ban Lương thực tỉnh. Tại đây, ông tiếp tục vận động người dân tăng gia sản xuất để đóng góp lương thực cho bộ đội; khai hoang đất trồng rau, lúa và mỗi năm 2 lần về Bình Định mua nhu yếu phẩm phục vụ đời sống anh em trong đơn vị. “Tôi nhớ nhất là những lần về Bình Định mua nhu yếu phẩm. Chúng tôi phải vượt qua hàng trăm cây số đường rừng, băng qua nhiều con suối. Đi đến đâu gặp trời tối thì mắc võng nằm tại đó. Mỗi lần về, hàng hóa chất cao hơn người. Song hiểm nguy hơn là không may bị địch tấn công hoặc gặp trời mưa lớn, nước sông dâng cao không thể về được. Những lúc như thế, lương thực cạn kiệt, tôi và mọi người phải tìm chuối rừng, rau rừng để ăn qua ngày. Thế nhưng, có những lần vì nhiệm vụ gấp, chúng tôi vẫn phải liều mình vượt sông và không ít lần tôi suýt chết vì lạnh và kiệt sức”-ông Thạch nhắc nhớ.

Năm 1974, ông Thạch tiếp tục được điều về lại huyện 1 để vận động người dân 3 xã Kon Pne, Kon Hà Nừng, Đak Rong chặt cây làm kho chứa gạo; làm đường vận chuyển lương thực. Sau giải phóng, ông tiếp tục công tác tại Ban Lương thực tỉnh với nhiệm vụ mới là thu mua lương thực của người dân để cấp cho cán bộ và bộ đội đóng chân trên địa bàn tỉnh.

…Với nhiều cống hiến cho cách mạng, những cựu chiến binh như ông Hòa, ông Thạch đã được Đảng và Nhà nước ghi nhận, tặng thưởng nhiều huân-huy chương cao quý. Hòa bình lập lại, họ tiếp tục tham gia công tác trong các cơ quan, ban ngành của tỉnh. Dù ở cương vị nào, họ cũng đều nỗ lực thực hiện tốt nhiệm vụ được giao, tiếp tục cống hiến sức lực, trí tuệ cho sự phát triển của địa phương.  

 

 NHẬT HÀO

 

Có thể bạn quan tâm

Sợi tơ mong manh kết nối trăm năm

Sợi tơ mong manh kết nối trăm năm

Khi nói đến sưu tầm đồ cổ ở Việt Nam, người ta thường nghe tới đồ gốm, sành sứ, hay đồ gỗ… chứ ít ai biết đến những món đồ vải mà qua đó thể hiện tay nghề thêu huy hoàng, vang danh thế giới của người Việt hàng trăm năm trước.

Tiến sĩ Nguyễn Minh Kỳ lọt Top 2% nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới năm 2025.

Tiến sĩ Nguyễn Minh Kỳ và hành trình vào top 2% nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới

(GLO)- Với nghiên cứu về ô nhiễm vi nhựa và công nghệ xử lý nước thải, Tiến sĩ Nguyễn Minh Kỳ (SN 1985, Phân hiệu Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh tại Gia Lai) được Đại học Stanford (Mỹ) và Nhà xuất bản Elsevier vinh danh trong top 2% nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới năm 2025.

Người lưu giữ hàng trăm “báu vật” Chư A Thai

Người lưu giữ hàng trăm “báu vật” Chư A Thai

(GLO)- Ở xã Chư A Thai (tỉnh Gia Lai), có một người đàn ông gắn bó cả cuộc đời với những “ký ức triệu năm” còn sót lại dưới lòng đất. Gần 25 năm qua, ông Rcom Sin đã lặng lẽ sưu tầm và trân trọng gìn giữ rất nhiều khối gỗ hóa thạch kết tinh của đất trời.

Sê San: Sông kể chuyện đời…

Sê San: Sông kể chuyện đời…

(GLO)- Dòng Sê San miệt mài chở nặng phù sa; sóng nước bồng bềnh không chỉ kể câu chuyện mưu sinh, bảo vệ phên giậu, mà còn gợi mở tương lai phát triển bền vững, góp phần khẳng định vị thế của vùng biên trong hành trình dựng xây quê hương, đất nước.

Chiếc nỏ của người lính trận Ia Drăng

Chiếc nỏ của người lính trận Ia Drăng

(GLO)- Mang ra chiếc nỏ được cất giữ hơn 30 năm, ông Siu Long (làng Gòong, xã Ia Púch, tỉnh Gia Lai)-nhân chứng trong trận đánh thung lũng Ia Drăng 60 năm trước chậm rãi nói: “Tôi muốn tặng món quà Tây Nguyên này cho một người bạn đến từ nước Mỹ”.

Ông Ksor Yung có lối sống trách nhiệm, gần gũi nên được mọi người quý mến. Ảnh: R’Ô Hok

Ksor Yung: Từ lối rẽ sai lầm đến con đường sáng

(GLO)- Từ một người từng lầm lỡ, ông Ksor Yung (SN 1967, ở xã Ia Rbol, tỉnh Gia Lai) đã nỗ lực vươn lên trở thành người có uy tín trong cộng đồng. Ông tích cực tham gia vận động, cảm hóa những người sa ngã, góp phần giữ gìn an ninh trật tự và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc.

Thôn Lao Đu giữa bát ngát núi rừng Trường Sơn

Lao Đu đã hết lao đao

Nằm bên đường Hồ Chí Minh huyền thoại, cuộc sống của hơn 150 hộ dân thôn Lao Đu, xã Khâm Đức, TP Đà Nẵng nay đã đổi thay, ngôi làng trở thành điểm du lịch cộng đồng giữa bát ngát núi rừng. 

Gặp người lính Thành cổ năm xưa

Gặp người lính Thành cổ năm xưa

(GLO)- Trở về từ cuộc chiến khốc liệt ở Thành cổ Quảng Trị, cựu chiến binh Hồ Anh Hòa ít khi nhắc lại kỷ niệm chiến đấu với gia đình, con cháu. Bởi ông cho rằng, việc cầm súng lao vào cuộc chiến thời điểm ấy là trách nhiệm của một người con yêu Tổ quốc, “không nên công thần”.

Các cổ vật gốm sứ chén, bát, đĩa... được ngư dân nhặt được.

Làng cổ vật

Nép mình bên eo biển Vũng Tàu, thôn Châu Thuận Biển (xã Đông Sơn, huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi) không chỉ nổi tiếng là “làng lặn Hoàng Sa” với truyền thống bám biển, giữ chủ quyền, mà còn được ví như “kho báu” lưu giữ hàng loạt cổ vật từ những con tàu đắm hàng thế kỷ dưới đáy đại dương.

'Phu sâm' ở núi Ngọc Linh

'Phu sâm' ở núi Ngọc Linh

Nhiều doanh nghiệp và người dân lên ngọn núi Ngọc Linh hùng vĩ ở TP.Đà Nẵng thuê môi trường rừng để trồng sâm, mở ra một nghề mới để đồng bào Xê Đăng bản địa mưu sinh suốt nhiều năm qua: 'phu sâm', tức nghề cõng hàng thuê.

Thầy giáo làng đam mê sưu tầm đồ xưa cũ

Thầy giáo làng đam mê sưu tầm đồ xưa cũ

(GLO)- Không chỉ bền bỉ gieo con chữ cho học trò nghèo, thầy Võ Trí Hoàn-Hiệu trưởng Trường Tiểu học và THCS Quang Trung (xã Ia Tul, tỉnh Gia Lai) còn là người đam mê sưu tầm đồ xưa cũ. Với thầy, mỗi món đồ là bài học sống động về lịch sử dân tộc mà thầy muốn kể cho học trò.

null