Kho báu của Vương Hồng Sển

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

Lâu nay, mọi người nghe nhắc đến những bộ sưu tập đồ cổ của học giả Vương Hồng Sển nhưng ít ai được tận mắt chứng kiến “kho” cổ vật này của ông hiện đang được lưu giữ và trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử TP.HCM, cùng bao câu chuyện lý thú đằng sau quá trình truy lùng các món đồ độc đáo này.

 

Đĩa vẽ rồng, mây và chữ Thọ hiệu đề 'Khánh Xuân Thị Tả'
Đĩa vẽ rồng, mây và chữ Thọ hiệu đề 'Khánh Xuân Thị Tả'


Kho tinh hoa vô giá

Với gần 900 cổ vật quý được hiến cho nhà nước, mọi người có thể thấy được lòng đam mê cả đời của học giả Vương Hồng Sển (1902 - 1996) dành cho nghề sưu tầm cổ vật. Thạc sĩ Nguyễn Khắc Xuân Thi, Phó giám đốc Bảo tàng Lịch sử TP.HCM, cho biết: “Bảo tàng đang trưng bày 5 chiếc chóe men xanh trắng Trung Quốc thế kỷ 17 - 19, vây quanh 1 chiếc thạp thế kỷ 11 của VN. Chiếc thạp này kích thước lớn, màu men trắng ngà, miệng được trang trí cắt khấc cánh hoa sen. Đây là hiện vật thời Lý tìm thấy ở Thanh Hóa, có lẽ là một trong những hiện vật lớn nhất thời Lý còn sót lại. Cụm bên trái là hàng loạt sản phẩm từ đồ đất nung của VN, Campuchia cho tới đồ gốm cao cấp của VN, Trung Quốc, nổi bật là chiếc hũ men trắng thế kỷ 15 của VN”.


 

Chóe gốm thời Thanh (thế kỷ 19) được học giả Vương Hồng Sển bỏ nhiều công sức và tiền bạc mới sưu tập được
Chóe gốm thời Thanh (thế kỷ 19) được học giả Vương Hồng Sển bỏ nhiều công sức và tiền bạc mới sưu tập được



Tận mắt chứng kiến các cổ vật thời Lý - Trần (thế kỷ 11 - 14) do ông sưu tập, chúng tôi càng kinh ngạc bởi nét hoa văn tinh xảo của người xưa. Ấm men sứ trắng có niên đại cuối thời Trần đầu thời Lê, những cổ vật thời Lê như chiếc bình vôi men trắng, bình đựng rượu chạm chữ Ngọc Tửu và các loại bình điếu, bình vôi, nậm rượu...


Cũng nhờ có các bộ sưu tập về gốm Nội Phủ và Khánh Xuân của Vương Hồng Sển mà “bí mật” về việc bành trướng của gốm sứ Trung Quốc tràn vào thị trường, bóp nghẹt nghề gốm VN thế kỷ 17 - 18 được giải mã. Khi nhà Mạc bị Lê - Trịnh đánh bại, các sản phẩm gốm Chu Đậu, Hải Dương nổi tiếng một thời từng được xuất khẩu gắn liền với tên tuổi nhà Mạc bị tiêu vong. Cuối thế kỷ 17, các chúa Trịnh cần nhiều vật dụng trong phủ song lại không sử dụng gốm nội địa mà chỉ thích gốm Nội Phủ và Khánh Xuân làm tại Trung Quốc, được trang trí rồng phượng, những con vật linh, biểu hiện cho bậc vua chúa, cùng các câu thơ ca ngợi hoa mai: Dẫu chưa nở trắng 3 lần/Trước trăm hoa vẫn chiếm phần khôi nguyên; hoa sen: Hương thơm không nhiễm bụi/Sinh sản mãi không ngừng...


Ngoài ra, bộ sưu tập Vương Hồng Sển còn có những loại gốm mang niên hiệu các vua triều Nguyễn, cùng nhiều loại cổ vật dưới thời Gia Long: bộ đồ trà Giáp Tý niên chế (1804), 1 chén quân mà ông gọi là chén cưỡi lừa, 1 đĩa chén vác lọng và nhiều tô thời Minh Mạng, chén thời Thiệu Trị, đĩa, tô thời Tự Đức. Tô Bính Tuất niên chế (1826) vẽ cảnh đèo Hải Vân với bài thơ Ái Lĩnh Xuân Vân, 2 đĩa Canh Dần (1830) vẽ tích Đằng Vương Các, ở dưới là thuyền và nước, phía trên là lầu gác cao với dòng chữ Đằng vương cao các lâm giang chữ…
 

Các cổ vật chén, hũ men ngọc và các loại bình điếu, bình vôi... rất có giá trị
Các cổ vật chén, hũ men ngọc và các loại bình điếu, bình vôi... rất có giá trị



Vừa thích chóe vừa mê cô bán chóe


Trong cuốn Khảo về đồ sứ men lam Huế, Vương Hồng Sển kể lại: “Cũng như bao người học chơi cổ ngoạn, tôi để ý nhiều 4 cặp chóe: một cặp chấm sơn thủy hoàn hảo của ông Trương Văn Hanh ở đầu cầu sắt nghe nói trước mua 20 đồng bạc, vẽ kỹ, màu tươi. Độ cỡ (thời - NV) vua Thiệu Trị. Một cặp nữa cũng sơn thủy của anh Sáu Chuẩn ở mé sông Vĩnh Phước (Sa Đéc - NV), nghe nói trước đây đổi 60 giạ lúa. Một cặp chóe vẽ long ám, kiểu rồng đâu mặt, của ông Ký Tỵ nhà sát vách ông Hanh và một cặp “Long ám rồng rược”, con này cắn đuôi con kia, tôi muốn quá nhưng khó hở môi. Dò dẫm suốt mấy năm trường nhưng không có chỗ nào ưng ý, cũng vì tánh khó ưa, kén cá chọn canh. Bỗng đầu năm 1934, chợ Sa Đéc mọc lên một đề bô bán thuốc tây từ Vĩnh Long dọn về ở gần đầu cầu Cái Sơn, phố ông hội đồng Thạnh. Người đứng bán tuy chưa phải hoa khôi nhưng chưa chồng và duyên dáng. Làm sao dám hỏi vì tiền ít, thêm nghe đâu ông thân cô là tay giàu có lớn. Con gái nhà người ta mình cũng thèm, cặp chóe người ta cũng muốn, là cái nỗi gì”.

 

 


Trước sức hấp dẫn của những cặp chóe, Vương Hồng Sển liều mạng tiếp tục viết thư qua Trà Vinh hỏi thăm. “Thơ đi thơ lại mãi, kéo dài nhưng không ngã ngũ, chủ chóe tha thiết cắt nghĩa rằng ông đã hết lời với chủ bạc xin dứt khoát món nợ, xin lãnh cặp chóe về đặng sang nhượng kiếm thêm chút ít...”. Ngày 24.1.1934, ông Sển mới lấy được một cặp trong số 4 cặp chóe kể trên tại Sóc Trăng mà tốn chỉ 250 đồng bạc, nhờ “cò kè bớt một thêm hai” mà rẻ được 50 đồng bạc. Còn chiếc tô đời Tống, có từ trước năm 1127, chính hiệu sản phẩm lò Long Tuyền đời Bắc Tống được ông mua thật rẻ: “Ngày 12.12.1939, lúc ấy còn làm việc tại chỗ nay là dinh Gia Long. Buổi trưa lãnh lương xong, cầm 2 chục đồng bạc qua đường d’Espagne (nay là Lê Thánh Tôn - NV) ghé nhà buôn Đỗ Như Liên mới lấy được cái tô ao ước mấy tháng nay. Vừa rồi lên lầu đường Tự Do (nay là Đồng Khởi - NV) trong hiệu buôn đồ cổ nhà Thành Lễ thấy cái tô giống hệt cái tô của mình đề giá đến 600.000 đồng bạc”. Chuyện sở hữu được chiếc hũ Halpern đời Đường rất quý cũng được ông tiết lộ trong những ghi chép tại Gia Định Vân đường phủ khá vui: “Trước đây, Halpern làm chủ một hiệu đồ cổ lấy hiệu Túp lều ở đường Nguyễn Huệ, xóm thương xá Tax ngày nay, hỏi nài cách mấy và cao giá bao nhiêu lão cũng không ưa bán, đùng một cái lão đau sơ sịa rồi mất, của cải sự nghiệp tứ tán, hũ về tôi với giá 11.000 đồng”.
 

 


Những đóng góp về lĩnh vực cổ vật cho VN và TP.HCM của học giả Vương Hồng Sển là rất lớn và đáng trân trọng. Nhiều cổ vật hiện nay được cho là “độc nhất vô nhị” và có giá trị kinh tế rất cao. Tiến sĩ Phạm Hữu Công, nguyên Phó giám đốc Bảo tàng Lịch sử TP.HCM, đánh giá: “Vương Hồng Sển không chỉ là học giả, một nhà văn hóa của Nam bộ mà còn là nhà sưu tầm đồ cổ lớn, là người VN đầu tiên viết nhiều sách nghiên cứu về cổ vật nhưng rất tiếc từ trước đến nay vẫn chưa có cơ hội để các nhà khảo cổ, sưu tầm cổ vật cùng gặp gỡ, bàn luận, từ đó có những đánh giá khách quan, nhận định về công trạng của ông. Chúng ta nên sớm tổ chức những hội thảo quy mô bàn về cuộc đời và sự nghiệp của Vương Hồng Sển. Đây là việc làm rất cần thiết để hiểu thêm về một trong những nhân vật có tiếng của vùng đất phương Nam”.

Theo Thanhnien

Gốm các nước trong bộ sưu tập Vương Hồng Sển cũng rất phong phú, đó là những loại âu, hũ Sawankhalok thế kỷ 15 - 16 của Thái Lan, đèn gốm đốt dầu hôi của Pháp thế kỷ 19, đĩa gốm men xanh trắng, chậu in decal hoa nâu của Pháp, đặc biệt là chiếc bình vôi nhiều màu làm tại Pháp thế kỷ 18 - 19 cho thấy người VN xưa đã đặt hàng từ Pháp tương tự như từ Trung Quốc. Sản phẩm Nhật có gốm Hizen thế kỷ 17 - 18, có nhiều sắc thái đặc biệt về đề tài, hoa văn. Sản phẩm của Campuchia là các loại bình đất nung không men hoặc chảy men với kiểu dáng đáy nhỏ, vai phình miệng túm.

Có thể bạn quan tâm

Những người giữ hồn dân ca Jrai

Những người giữ hồn dân ca Jrai

(GLO)- Nhằm bảo tồn và phát huy nét đẹp văn hóa của dân tộc Jrai, nhiều nghệ nhân ở xã Ia Rbol (thị xã Ayun Pa, tỉnh Gia Lai) từng ngày âm thầm lưu giữ những làn điệu dân ca như một cách thể hiện tình yêu với cội nguồn.

Lưu giữ “men say” của đại ngàn

Lưu giữ “men say” của đại ngàn

(GLO)- Hiện nay, nhiều gia đình người dân tộc thiểu số ở Gia Lai vẫn giữ nghề ủ rượu cần truyền thống từ men lá tự nhiên. Theo thời gian, họ đã cùng nhau lưu giữ “men say” của đại ngàn, giúp cho thức uống mang đậm dấu ấn văn hóa của cộng đồng các dân tộc ở Tây Nguyên được chắp cánh bay xa.

Gương mặt thơ: Trúc Phùng

Gương mặt thơ: Trúc Phùng

(GLO)- Đây là số cuối cùng của chuyên mục “Gương mặt thơ” trên báo Gia Lai Cuối tuần do tôi phụ trách.Chuyên mục đã đi được hơn 2 năm (từ tháng 10-2022), tới nay đã giới thiệu tác phẩm của hơn 100 nhà thơ nổi tiếng trên thi đàn cả nước.

Người Mường ở xã Ia Lâu “giữ lửa” cồng chiêng

Người Mường ở xã Ia Lâu “giữ lửa” cồng chiêng

(GLO)- Rời quê vào thôn Đà Bắc (xã Ia Lâu, huyện Chư Prông) lập nghiệp đã hơn 30 năm, nhưng cộng đồng người Mường vẫn luôn duy trì và nỗ lực bảo tồn văn hóa cồng chiêng của dân tộc. Với họ, “giữ lửa” cồng chiêng chính là cách làm thiết thực nhất tạo sự gắn kết bền chặt với quê hương, nguồn cội.

Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên là di sản có tiềm năng khai thác kinh tế du lịch. Ảnh: Minh Châu

Những ngày làm hồ sơ “Không gian văn hóa cồng chiêng”

(GLO)- Ngày 23-3-2004, Bộ trưởng Bộ Văn hóa-Thông tin (nay là Bộ Văn hóa-Thể thao và Du lịch) ban hành quyết định về việc xây dựng hồ sơ ứng cử quốc gia “Vùng văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên” là di sản tiếp nối trình UNESCO công nhận là kiệt tác di sản truyền khẩu và phi vật thể của nhân loại.

Về miền di sản

Về miền di sản

(GLO)- Những địa danh lịch sử, điểm di sản là nơi thu hút nhiều người đến tham quan, tìm hiểu. Được tận mắt chứng kiến và đặt chân lên một miền đất giàu truyền thống luôn là trải nghiệm tuyệt vời và xúc động đối với nhiều người.

Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam trở thành Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại

Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam trở thành Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại

(GLO)- Tại Kỳ họp thứ 19 của Ủy ban Liên Chính phủ Công ước 2003 của UNESCO về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể diễn ra tại Thủ đô Asunción (Cộng hòa Paraguay) vào ngày 4-12, UNESCO đã chính thức ghi danh Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam của Việt Nam vào Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.

“Điểm sáng văn hóa vùng biên”

“Điểm sáng văn hóa vùng biên”

(GLO)- Năm 1993, Sở Văn hóa-Thông tin (VH-TT) và Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Gia Lai đã ký kết chương trình phối hợp hành động với nhiều hoạt động thiết thực, trong đó có mô hình “Điểm sáng văn hóa vùng biên”.