Hồi ức "hạt giống đỏ" trên đất Bắc-Kỳ 4: Những ngày ở Quế Lâm

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
(GLO)- Khoảng tháng 2-1967, Trường sang Quế Lâm (Trung Quốc), đóng ở cơ sở cũ trước đây là Khu học xá học sinh Việt Nam. Phía sau trường là dãy núi đá xanh cao trải dài…
Thầy Cẩm làm Giám đốc khu Học xá học sinh miền Nam, bác Y Ngông làm Phó Giám đốc. Khu có ba trường: Trường Nguyễn Văn Bé (trường dành cho học sinh người Kinh quê miền Nam, có 3 hệ cấp I, II và III); Trường Dân tộc Trung ương (cũng đủ 3 hệ cấp I, II và III) và Trường Nhi đồng Võ Thị Sáu (chủ yếu Mẫu giáo). 
Đến Trung Quốc bấy giờ mọi người thường được tặng huy hiệu Mao Trạch Đông. Đến căng tin (do người Trung Quốc quản lý) bao giờ cũng thấy nơi này trưng bày rất nhiều quyển sổ bìa đỏ có in hình Mao Chủ tịch, gọi là “5 trước tác của Mao Chủ tịch”, tập tranh giới thiệu Anh hùng Lôi Phong (người anh hùng hy sinh trong chống lũ) và cuốn tranh nói về Công xã Đại Trại, một số sách ảnh nói về chiến tranh chống Liên Xô ở biên cương phía Bắc của Trung Quốc. Cũng tại nơi đây, tôi mới biết về báo tường của Trung Quốc. Họ xây những bức tường cao khoảng 1,6 m (cả đế) dày khoảng 20 cm, rộng khoảng 2 m; phần đế cao khoảng 45 cm, dày 40 cm; có mái che nhỏ chạy dọc bức tường. Cứ khoảng 1 tháng họ lại dán các tấm tranh, áp phích chủ yếu tuyên truyền về Mao Trạch Đông, cách mạng Văn hóa, cuộc chiến chống Liên Xô... Hầu hết đều được dịch ra tiếng Việt. 
Trường Nguyễn Văn Trỗi ở Quế Lâm. Nguồn: Facebook
Trường Nguyễn Văn Trỗi ở Quế Lâm. Nguồn: Facebook
Trong trường có nhiều bàn bóng bàn xi măng. Tôi biết và thích chơi đánh bóng bàn là từ đây. Trường được một đơn vị Quân Giải phóng Trung Quốc bảo vệ. Từ kỳ 2 năm lớp 4, tôi bắt đầu thích đọc sách và chơi cờ tướng. Tuần nào tôi cũng đến thư viện trường để mượn sách. Tôi nhớ người phụ trách thư viện là bà Ngọc và chị Đại. Bà Ngọc sau này lấy thầy Thê-Hiệu trưởng Trường cấp III Dân tộc miền Nam.
Cũng trong TP. Quế Lâm còn có Trường Nguyễn Văn Trỗi là trường Thiếu sinh quân dành cho con, cháu của các cán bộ lảnh đạo cao cấp từ Thượng tá trở lên. Trường này có chế độ nuôi dưỡng cao hơn Khu học xá Việt Nam. Hàng năm, 3 trường vẫn tổ chức giao lưu thi văn nghệ, thể thao.
Hè năm 1967, trường được Bộ Giáo dục tăng cường thêm nhiều giáo viên trẻ trong nước sang. Tôi nhớ có lần nghỉ ngơi trong lần đi dã ngoại, thầy Nguyễn Đại Đại Quắc (số giáo viên trẻ 10+3 mới sang) hát bài “Đời ta”: “Đời ta chỉ sống có một lần thôi. Cho nên cuộc sống quý giá vô cùng. Phải sống sao cho ra sống, để chết đi không còn áy náy gì. Chỉ thấy sung sướng khi đời mình mang cống hiến Nhân dân”. Bài hát được phỏng theo lời tự sự của Paven Cosagin trong “Thép đã tôi thế ấy” của Nikolai A.Ostrovsky. Sau đó toàn trường rộ lên đọc “Thép đã tôi thế ấy” và học bài hát đó. Bọn trẻ con chúng tôi cũng thích vậy.
Năm học 1967-1968 tôi học lớp 5A, thầy Tiêm (người Thái Bình) chủ nhiệm. Khoảng tháng 8-1967, Ksor Nham từ Cao Bằng sang Quế Lâm để chuẩn bị vào học lớp 1. 
Bắt đầu từ năm 1967 tôi thích đọc sách. Tôi thường đọc nhiều sách tranh của thiếu niên, những mẩu chuyện về Hồ Chủ tịch, truyện ngắn các anh hùng lực lượng vũ trang, chuyện cổ tích, kiếm hiệp, trinh sát hình sự, “Tam Quốc diễn nghĩa”, “Đông Chu liệt quốc”, “Thép đã tôi thế ấy”, “Mùa xuân trên sông Ô đecxa” và nhiều truyện của Liên xô bấy giờ.
Thầy Liêm chủ nhiệm (ngồi giữa) cùng lớp 4 của Trường Dân tộc Miền Nam ở Khu mới – Quế Lâm, Trung Quốc (ảnh chụp năm 1969). Ảnh: Ksor Phước
Thầy Liêm chủ nhiệm (ngồi giữa) cùng lớp 4 của Trường Dân tộc miền Nam ở khu mới-Quế Lâm, Trung Quốc (ảnh chụp năm 1969). Ảnh: Ksor Phước
Từ lớp năm, lớp được học thêm Nhạc lý do cô Nay H’Wyl (vợ thầy Siu Pơi, má của Nay H’Tuyết và Siu Hồng Nơi) dạy. Cũng từ lớp năm, mình tự mày mò đánh được đàn mandolin và thổi sáo...
Đến khoảng cuối tháng 8-1968, Khu học xá Học sinh miền Nam Việt Nam chuyển về khu mới, bác Y Ngông thay bác Cẩm làm Giám đốc (chỉ có hai Trường Nguyễn Văn Bé và Dân tộc Trung ương, mỗi trường có hai hệ, cấp I và cấp II). 
Ở Quế Lâm, lần đầu tiên chúng tôi biết đến món ăn sáng bánh bao nhân thịt. Lần đầu tiên, chúng tôi ăn một mâm 8 người, một khay cơm vuông, được nấu bằng phương pháp đưa vào lò hình khối chữ nhật, hấp bằng hơi, cơm chín rất đều. 
Ở khu trường cũ, cả khu giáo dục chỉ có một sân bóng đá. Buổi chiều học sinh hai trường kéo vào trong sân chơi rất đông. Tôi nhớ bên trường Nguyễn Văn Bé có anh tên là Địch chân vòng kiềng chơi bóng rất hay. Bên Trường Dân tộc miền Nam có các anh Y Miên, Pôl, Hải Thông, Đinh Phương cũng đá rất hay…
Khoảng giữa tháng 8-1968, toàn bộ học sinh cấp III (cả 2 trường) và học sinh quê ở Nam Bộ của Trường Nguyễn Văn Bé về nước.
Tháng 8-1968, Trường Dân tộc Trung ương và Nguyễn Văn Bé chuyển sang khu mới. Cũng trong tháng này có thêm một đợt học sinh từ trong nước sang. Lần đầu tiên ở hệ cấp I, các học sinh người Kinh miền Nam mới ra ở và học chung với học sinh dân tộc.
Thời tiết ở Quế Lâm mùa đông rất lạnh, có năm có tuyết, có năm không có; mùa hè vào các tháng 6, 7, 8 rất nóng, có năm nóng dữ dội. Mùa đông lạnh giá, chúng tôi sưởi ấm bằng than luyện từ củi để trong chậu. Mùa hè nóng, chúng tôi thường ra sông Ly Giang bơi.
Năm học 1968-1969 học lớp 6A, thầy Tâm dạy Sinh (người Thái Bình) là chủ nhiệm, thầy Phiên dạy văn (người Bình Định) Phó Chủ nhiệm. Nữ có thêm chị Đoài và H’Lóc.
Từ năm học này tôi bắt đầu yêu thích môn văn. Bài thầy Phiên dạy hay nhất là bài thơ “Anh chủ nhiệm hợp tác xã” của nhà thơ Hoàng Trung Thông. Từ năm học này lớp được học thêm môn họa, do thầy Bé (của Trường Nguyễn Văn Bé) dạy. Phải thừa nhận tôi cũng rất thích môn học này. Sang khu trường mới, mỗi trường có một sân bóng đá riêng.
Năm học 1969-1970, tôi học lớp 7A, thầy Nguyễn Đại Quắc (người Hải Phòng) chủ nhiệm dạy toán rất hay, dễ hiểu. Thầy Sợi (người Thái Bình) dạy Văn cũng rất hay. Đúng ra từ năm lớp 6 tôi đã rất thích học hai môn Toán và Văn. Tôi đã học thuộc lòng nhiều bài thơ, nhất là thơ của Tố Hữu. Đến nay tôi vẫn nhớ Hoài Thanh là nhà bình thơ mà chúng tôi thường đọc thấy hay nhất.
Khoảng cuối tháng 7-1970 học sinh lớp 7 về nước. Tôi vẫn nhớ như in, trước đó, buổi tối Nay Đô và Nham lên phòng tôi ngủ. Khoảng 5 giờ 30 phút chúng tôi dậy, Nham vẫn ngủ say. Tôi vẫn để nó ngủ, chắc sáng đó dậy không thấy tôi đâu, có thể Nham buồn. Mờ sáng hôm đó, ô tô đưa chúng tôi ra ga Quế Lâm để về Hà Nội.
Tôi nhớ lắm các thầy cô giáo dạy cấp II, là những người rất gần gũi, cảm thông, yêu thương chăm lo cho chúng tôi. Lứa tuổi từ 20 trở xuống của chúng tôi bấy giờ đang độ nở hoa đẹp nhất đã được tiếp nhận ngay nền giáo dục xã hội chủ nghĩa, nhờ đó đã sớm ươm mầm trong tư tưởng, tình cảm của chúng tôi những phẩm chất đặc trưng của người thanh niên Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh, thời chống Mỹ cứu nước… Chúng tôi mãi mãi ghi nhớ công ơn dạy dỗ với tâm-đức rất thân tình, rất trong sáng đối với chúng tôi của các thầy, cô giáo. 
Chúng tôi về Trường cấp III Dân tộc miền Nam (thầy Thê Hiệu trưởng, thầy Lôi và thầy Toại Hiệu phó) đóng tại bản Trang (xã Chi Lăng, huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn). Cuối tháng 9-1970 trường chuyển về sơ tán tại xóm Chợ, xã Phúc Triều, huyện Đông Hỷ, tỉnh Bắc Thái. Trường đổi tên thành Trường Học sinh miền Nam số 3.
Năm học 1971-1972, tôi học lớp 9, cô Điều dạy Văn (người dân tộc Hrê) làm chủ nhiệm. Tháng 7-1971, toàn bộ học sinh các lớp cấp II thuộc Trường Dân tộc miền Nam ở Quế Lâm về nước và nhập vào Trường Học sinh miền Nam số 3. H’Nhan cũng về, còn Nham ở lại đến cuối năm 1975 mới về nước. Khoảng tháng 4-1972, trường lại tiếp nhận thêm hơn trăm em học sinh cấp I mới từ miền Nam ra. Như vậy, từ đây Trường Học sinh miền Nam số 3 có đủ các lớp từ 1 đến 10 phổ thông.
KSOR PHƯỚC

Có thể bạn quan tâm

Trở về nẻo thiện

Trở về nẻo thiện

Hiểu được không nơi nào bằng, yên bình như buôn làng, những già làng, người có uy tín ở Gia Lai kiên trì đêm ngày vận động, giải thích cho người dân không nghe theo lời dụ dỗ của “Tin lành Đê Ga”.

Căn nhà của bà Đào bị đổ sập hoàn toàn trước cơn lũ dữ.

Những phận người ở rốn lũ Tuy Phước

(GLO)- Chỉ trong vòng nửa tháng, người dân vùng rốn lũ Tuy Phước phải gồng mình gánh chịu 2 đợt bão lũ lịch sử. Bên cạnh những căn nhà trơ trọi sau lũ, những phận người trắng tay vẫn cố gắng gượng dậy, với hy vọng được dựng lại mái ấm và cuộc sống yên bình.

Chuyện cổ tích của buôn làng

Chuyện cổ tích của buôn làng

(GLO)- Ở làng Tươl Ktu (xã Đak Đoa), khi nhắc đến vợ chồng bác sĩ Nay Blum - H’Nơn, người dân nơi đây luôn kể về họ như kể lại những câu chuyện cổ tích. Với họ, đôi vợ chồng bác sĩ ấy là quà của Yang tặng cho làng Tươh Ktu.

Chiêu trò “việc nhẹ, lương cao”: Vỏ bọc tội phạm mua bán người - Kỳ cuối: Cùng ngăn chặn tội ác

Chiêu trò “việc nhẹ, lương cao”: Vỏ bọc tội phạm mua bán người - Kỳ cuối: Cùng ngăn chặn tội ác

(GLO)- Các cơ quan chức năng, nhất là ngành Công an, chính quyền địa phương là lực lượng chủ công trong phòng, chống mua bán người. Tuy nhiên, toàn xã hội cũng phải cùng vào cuộc và quan trọng nhất là mỗi cá nhân phải chủ động bảo vệ mình bằng cách nâng cao nhận thức, hiểu biết pháp luật.

Một góc trung tâm xã Kon Chiêng.

Đánh thức Kon Chiêng

(GLO)- Từ quốc lộ 19 rẽ vào tỉnh lộ 666 khoảng 40 km thì đến xã Kon Chiêng. Hai bên đường là những triền mía xanh mát, thấp thoáng những mái nhà sàn trong không gian xanh thẳm của núi rừng, gợi về một Kon Chiêng đang vươn mình đổi thay.

Những chiếc bè nuôi thủy sản của ngư dân bị sóng đánh vỡ tan, trôi dạt ven biển.

Xác xơ làng chài sau cơn bão dữ...

(GLO)-Sau cơn bão dữ Kalmaegi (bão số 13), những làng chài vốn yên bình, đầy sinh khí bỗng chốc trở nên xác xơ, trơ trọi và ngổn ngang chỉ sau vài giờ bão quét qua. Cảnh quan rồi sẽ dần hồi phục, nhưng những mất mát, tổn thất vẫn sẽ đè trĩu trên đôi vai người dân ven biển rất lâu nữa...

Cảnh hoang tàn, đổ nát ở làng chài Nhơn Lý, Gia Lai. Ảnh: Đức Nhật

Gượng dậy sau bão

Bão Kalmaegi (bão số 13) đã tan, trên dải đất ven biển Gia Lai, Đắk Lắk, người dân lặng lẽ nhặt lại từng tấm tôn, viên ngói, gom góp chút bình yên từ đống hoang tàn.

Giữa tầng mây giữ trời

Giữa tầng mây giữ trời

(GLO)- Đỉnh Hàm Rồng cao hơn 1.000 m so với mực nước biển. Sườn núi sương mờ bao phủ này là nơi cán bộ, chiến sĩ Đài Quan sát thuộc Đại đội Thông tin (Phòng Tham mưu, Lữ đoàn Pháo phòng không 234, Quân đoàn 34) đồn trú.

Sống chậm với đĩa than trong thời đại số - Kỳ 1: Sự hồi sinh của dòng đĩa Vinyl

Sống chậm với đĩa than trong thời đại số - Kỳ 1: Sự hồi sinh của dòng đĩa Vinyl

Trong thời đại mà một thiết bị đeo tay có thể chứa đến 60 triệu bài hát, việc lựa chọn nghe nhạc từ một chiếc đĩa than tưởng như là lỗi thời. Nhưng thực tế, đó lại là biểu hiện của một xu thế tìm lại sự nguyên bản, chậm rãi và thật lòng trong trải nghiệm thưởng thức.

Sợi tơ mong manh kết nối trăm năm

Sợi tơ mong manh kết nối trăm năm

Khi nói đến sưu tầm đồ cổ ở Việt Nam, người ta thường nghe tới đồ gốm, sành sứ, hay đồ gỗ… chứ ít ai biết đến những món đồ vải mà qua đó thể hiện tay nghề thêu huy hoàng, vang danh thế giới của người Việt hàng trăm năm trước.

Người lưu giữ hàng trăm “báu vật” Chư A Thai

Người lưu giữ hàng trăm “báu vật” Chư A Thai

(GLO)- Ở xã Chư A Thai (tỉnh Gia Lai), có một người đàn ông gắn bó cả cuộc đời với những “ký ức triệu năm” còn sót lại dưới lòng đất. Gần 25 năm qua, ông Rcom Sin đã lặng lẽ sưu tầm và trân trọng gìn giữ rất nhiều khối gỗ hóa thạch kết tinh của đất trời.

null