Họ đã trở thành nhân vật của tôi

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
Nếu tôi không làm báo thì có thể tôi sẽ chẳng bao giờ gặp họ. Hoặc giả, nếu có gặp thì cũng sẽ thông thường như với trăm, ngàn người khác. Cuộc đời họ sẽ chẳng bao giờ ở lại trong ký ức của tôi và tôi sẽ chẳng bao giờ có cơ hội chuyển tải đến bạn đọc những thông điệp có ích từ những câu chuyện của họ. Thế nên, nếu được nói lời tri ân với nghề báo, thì với tôi, đó là sự biết ơn vì những cơ hội mà nghề nghiệp mang lại cho mình.
Người lặng lẽ ở nhà số 7
Anh là nhân vật báo chí đầu tiên của tôi khi tôi bắt đầu nghề báo tại Hà Nội ở tờ báo đình đám thời ấy - tờ An ninh thế giới - bây giờ là Chuyên đề của Báo Công an nhân dân. Ngôi nhà số 7 phố Thiền Quang, cũng là cơ sở đầu tiên tôi tiếp cận để thu thập thông tin với vai trò là phóng viên của tờ An ninh thế giới. Đó là một ngôi biệt thự Pháp cổ, nép mình trong con phố nhỏ với khoảng sân đủ rộng, rợp bóng hoàng lan. Sau này, khi quen dần với Công an Hà Nội, tôi mới biết, ngôi nhà mang tên “số 7 Thiền Quang” ấy là “thương hiệu” của Công an Thủ đô, là trụ sở của một đơn vị cảnh sát mà chỉ nghe thấy tên, tội phạm đã bạt vía kinh hồn - Phòng Cảnh sát hình sự.
Anh ngồi trên tầng 2, trong một căn phòng bình thường, ít tiện nghi. Lúc ấy anh đeo hàm đại tá, trưởng phòng, gầy gò, dong dỏng cao, nói năng nhỏ nhẹ, không hề có dáng dấp gì của một sĩ quan cảnh sát cao cấp, phụ trách một đơn vị cảnh sát hình sự lẫy lừng ở một địa bàn trọng yếu nhất trong các địa bàn trọng yếu. Và, tôi, lúc ấy cũng không hề biết rằng, người đàn ông trung niên giản dị đang tiếp tôi kia là một người nổi tiếng. Sau này tôi mới biết anh từng được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang từ khi còn rất trẻ và anh chính là nguyên mẫu của anh trinh sát hình sự, nhân vật trong cuốn tiểu thuyết mà tôi từng say mê đọc khi còn học trung học ở Hải Phòng.

Cuộc trò chuyện của tác giả với một tử tù.
Cuộc trò chuyện của tác giả với một tử tù.
Cuộc làm việc với tôi diễn ra rất nhanh. Anh ghi vào bên lề tờ giấy giới thiệu của tôi đại ý đồng ý cho tôi tiếp cận với tất cả các đội nghiệp vụ.
Suốt gần một tháng trời tôi đã làm việc với tất cả các đội nghiệp vụ. Có lẽ, phần vì thương hiệu của tờ báo, phần vì tôi, một phụ nữ đang nuôi con nhỏ nhưng không quản ngại vất vả mà một số đội công tác đã đồng ý cho tôi được đi cùng họ, được tận mắt chứng kiến cuộc đấu tranh với tội phạm vô cùng phức tạp và hiểm nguy của lực lượng cảnh sát hình sự Thủ đô.
Rồi những cuộc trò chuyện trong suốt cả tháng trời ấy còn cho tôi biết cả những góc khuất trong đời sống riêng tư của những trinh sát bề ngoài nom bình thản và dũng mãnh kia. Câu chuyện một trinh sát hình sự vợ bỏ một mình nuôi con nhỏ, tôi không chỉ được nghe kể mà còn tới tận nơi ở của hai cha con. Những tháng lương gần như không còn đồng nào vì đã tạm ứng trước để đi công tác của các trinh sát trẻ còn đang phải ở nhà thuê hoặc nằm bàn ở đơn vị, ăn cơm bụi hằng ngày cũng được tường tận. Những buổi chiều mùa đông Hà Nội lạnh giá, tôi từng lặng lẽ đứng ở cổng nhà số 7, nhìn các trinh sát tiễn nhau đi làm án và rồi thót tim dõi theo tin tức hằng ngày, để mừng vui khi họ trở về an toàn.
Khi loạt bài viết 5 kỳ về cảnh sát hình sự lên An ninh thế giới chỉ với một phần tư liệu mà tôi thu thâp được nhưng đã gây xúc động mạnh trong bạn đọc. Không chỉ nhận được giải thưởng cao ở cuộc thi viết “Vì bình yên cuộc sống” do Bộ Công an tổ chức, tôi còn nhận được phần thưởng lớn hơn thế. Đó là rất nhiều thư của bạn đọc gửi tới cảm ơn tòa soạn vì đã phản ánh được đời sống chiến đấu của lực lượng cảnh sát hình sự Thủ đô. Các nhân vật trong bài viết của tôi cũng nhận được sự ngưỡng mộ của bạn đọc. Thậm chí, có bạn đọc còn ngỏ ý được... về chung nhà với anh chàng trinh sát đang làm bố đơn thân kia.
Còn anh, chỉ tiếc, trong tất cả các bài viết của tôi không có anh, người chỉ huy cao nhất ở nhà số 7, người duyệt tất cả các kế hoạch đánh án nhưng luôn luôn đứng ở đằng sau. Anh không cho tôi viết về anh.
Mãi sau này, dù đã trở nên thân thiết và anh được phong hàm tướng, được giữ trọng trách cao hơn nữa nhưng tôi vẫn chưa bao giờ được viết về anh, trừ những trích dẫn ngắn gọn của anh trong các cuộc họp báo.
Giờ anh đã về hưu với hàm trung tướng, vẫn lặng lẽ như xưa và bình yên trước biết bao biến động. Hôm rồi, anh nhắn mời tôi qua nhà chơi - “và không phỏng vấn chứ” - tôi đùa.
Trong khu giam tử hình
Khi ấy, tôi và những nhà báo nổi tiếng khác của tòa soạn như Hồng Lam, Phạm Ngọc Dương, Đỗ Doãn Hoàng... được giao nhiệm vụ đứng trang phóng sự với các loạt bài hằng tuần. Mỗi loạt chừng 3-4 kỳ, loạt nọ gối loạt kia, chưa hết loạt này đã có “góc bao diêm" in trên báo giới thiệu loạt khác. Cái “góc bao diêm” có mấy chục chữ mà áp lực ghê lắm, giống như nghìn lời hối thúc.
Công an TP Hà Nội khi đó đã tạo điều kiện cho tôi và phóng viên ảnh Trang Dũng được sống trong khu giam riêng dành cho các phạm nhân tử hình ở Trại tạm giam Hà Nội mà tên dân dã là “Hỏa Lò” để tôi thực hiện loạt bài viết "Những cuộc trò chuyện trong khu giam tử hình". Cho dù, thủ tục để được vào "trỏng" sống khá phức tạp. Tôi đã ở đó với họ, những bị án tử hình đang trong những ngày sống cuối cùng đợi thi hành án. Và, mãi sau này tôi mới biết chúng tôi là những phóng viên đầu tiên có cơ hội được “sống” trong khu giam đặc biệt này.
Hà Nội khi đó tiết tháng 3, đã không còn lạnh. Ngoài đường, xống áo đã phong phanh. Nhưng, khi bắt đầu bước chân vào khu biệt giam thì bỗng nhiên, một cảm giác ớn lạnh từ đâu xộc tới. Trong các buồng giam tử tù sau nhiều lần cửa, tôi vào, ngồi lên bệ ximăng và co ro trong chiếc áo vest đen mà lúc đi chỉ cốt mặc để cho trông nghiêm túc. Sau này về, tôi viết: "Bốn cuộc trò chuyện trong loạt bài dưới đây được phóng viên An ninh thế giới thực hiện ngay trong khu giam tử hình, giữa bốn bề là song sắt, lạnh lẽo và u buồn. Cuối tháng 3, hoa gạo trên đường ngoài cổng trại đã nở đỏ rực, còn ở trong này, dường như mùa đông vẫn chưa qua".
Tất cả những tử tù lần đó tôi gặp, đều là những người "quen". Quen không phải là bạn bè hay dây mơ rễ má gì mà quen là do tôi đã từng gặp họ ở phiên tòa sơ thẩm hoặc gặp ở số 7 Thiền Quang lúc họ bị bắt giam. Đ. cũng vậy. Khi Đ. bị bắt, một điều tra viên đã gọi điện báo tin cho tôi. Anh bảo, Đ. nghiện ma túy, cậu ấy giết người, cướp tài sản một cách cực kỳ dã man cũng là vì ma túy. Nhưng, cậu ấy là một người con hiếu thảo và là một người cha tốt của hai đứa con gái, lúc ấy vẫn chưa trưởng thành. Cha Đ. bị liệt, sáng nào Đ. cũng cõng cha từ tầng 3 xuống tầng 1, dìu cha tập đi rồi lại cõng cha lên. Xong xuôi rồi mới đi chích ma túy. Hai đứa con gái Đ., mẹ bỏ đi từ lúc còn tấm bé, Đ. vừa làm cha lại vừa làm mẹ, chăm sóc con kỹ càng.
Khi Đ. bị bắt cũng là lúc chỉ còn hai hôm nữa là khai giảng, một điều tra viên ở số 7 Thiền Quang đã cho con gái lớn của Đ. 500 nghìn đồng để cháu thêm vào mua sắm đồ dùng học tập cho năm học mới.

Tử tù gặp mặt gia đình.
Tử tù gặp mặt gia đình.
Sau này, trong cuộc trò chuyện với tôi ở khu giam tử hình, Đ. cứ nhắc mãi chuyện đó với tất cả sự hàm ơn. Người cán bộ điều tra đó giờ đã không còn ở số 7 Thiền Quang, anh cũng đã được phong hàm tướng và trở thành chỉ huy của một đơn vị quan trọng.
Như một sự tình cờ của số phận, ngày Đ. gặp tôi cũng chính là ngày cưới của đứa con gái lớn. Đ. ngồi với tôi, trong một căn phòng nhỏ cách khu giam chỉ một hành lang hẹp và khóc như mưa khi nói về hai đứa con, những đứa trẻ mà số phận dường như đã ràng buộc chúng vào những đớn đau của cuộc đời Đ.
Khoảng cách giữa tôi và Đ. rất gần, chỉ cách một cái bàn nhỏ. Anh ta dù đang bị tạm giam, vẫn thoáng ngần ngại khi tôi là phụ nữ mà mở nước Lavie cho Đ. uống, châm thuốc cho Đ. hút. Đ. kể chuyện đời mình, một cuộc đời bị tan tành vì ma túy. Đ. kể chuyện về cuộc sống trong khu biệt giam, nơi ngày nào anh ta cũng tụng kinh, niệm Phật để sám hối, những mong gột rửa được tội lỗi tày đình mình đã gây ra. Nhưng, nhiều nhất vẫn là về mẹ và những đứa con. Đ. dằn vặt và ân hận với mẹ, với các con, với người bị hại. Và, Đ. khóc. Tôi cũng khóc.
Sau này về, tôi viết: "Rất nhiều nước mắt đã rơi trong cuộc trò chuyện này. Cửa buồng giam tử tù ở ngay phía sau lưng nơi Đ. ngồi trò chuyện cùng tôi. Đ. trở về phía đó và bảo rằng, ranh giới giữa sự sống và cái chết đối với những tử tù như Đ. rất gần, chỉ là một buổi sáng thôi khi lệnh thi hành án được bắt đầu. Vì thế mà bây giờ, sám hối đã là quá muộn nhưng rất cần để được ra đi thanh thản".
Cùng với Đ., tôi còn gặp thêm 3 tử tù nữa. Những câu chuyện đời, buồn nhiều hơn vui, nuối tiếc, ân hận, dằn vặt nhiều hơn là trông mong, hy vọng.
Và, tôi đã có một ngày sống trọn vẹn ở nơi cuộc sống khác, ở nơi mà bốn bề, bên phải, bên trái, đằng trước, đằng sau, chỗ nào cũng là song sắt.
Đ. giờ đã về với đất. Cuộc thi hành án diễn ra sau cuộc trò chuyện đó nhiều tháng. Những đoạn video quay toàn cảnh cuộc trò chuyện của tôi và Đ. trong khu giam tử hình cũng mãi nằm lại, ở yên trong bộ nhớ máy tính của phóng viên ảnh. Những bức hình cũ, thi thoảng tôi xem lại, chỉ thấy toàn nước mắt. Nhưng, nước mắt sám hối của Đ., tôi nghĩ cũng thật cần, bởi nó là bài học có ích cho nhiều người. Cuộc đời Đ. với những sa ngã phải trả giá bằng mạng sống chính là bằng chứng đầy đau đớn về hậu quả kinh hoàng của ma túy. Tôi hạnh phúc vì tờ báo của tôi đã chuyển tải được những điều có ích đó đến công chúng, bằng cách kể chuyện những phận người...
Theo Đặng Huyền (cand.com.vn)
 

Có thể bạn quan tâm

Sê San: Sông kể chuyện đời…

Sê San: Sông kể chuyện đời…

(GLO)- Dòng Sê San miệt mài chở nặng phù sa; sóng nước bồng bềnh không chỉ kể câu chuyện mưu sinh, bảo vệ phên giậu, mà còn gợi mở tương lai phát triển bền vững, góp phần khẳng định vị thế của vùng biên trong hành trình dựng xây quê hương, đất nước.

Chiếc nỏ của người lính trận Ia Drăng

Chiếc nỏ của người lính trận Ia Drăng

(GLO)- Mang ra chiếc nỏ được cất giữ hơn 30 năm, ông Siu Long (làng Gòong, xã Ia Púch, tỉnh Gia Lai)-nhân chứng trong trận đánh thung lũng Ia Drăng 60 năm trước chậm rãi nói: “Tôi muốn tặng món quà Tây Nguyên này cho một người bạn đến từ nước Mỹ”.

Ông Ksor Yung có lối sống trách nhiệm, gần gũi nên được mọi người quý mến. Ảnh: R’Ô Hok

Ksor Yung: Từ lối rẽ sai lầm đến con đường sáng

(GLO)- Từ một người từng lầm lỡ, ông Ksor Yung (SN 1967, ở xã Ia Rbol, tỉnh Gia Lai) đã nỗ lực vươn lên trở thành người có uy tín trong cộng đồng. Ông tích cực tham gia vận động, cảm hóa những người sa ngã, góp phần giữ gìn an ninh trật tự và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc.

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

(GLO)- Giữa bao thiếu thốn của vùng đất Pờ Tó, có một người thầy lặng lẽ, bền bỉ gieo yêu thương cho học trò nghèo. Thầy không chỉ dạy chữ mà còn khởi xướng nhiều mô hình sẻ chia đầy ý nghĩa như: “Tủ bánh mì 0 đồng”, “Mái ấm cho em”, “Trao sinh kế cho học trò nghèo”.

Trung tá Cao Tấn Vân (thứ 2 từ phải sang)-Phó Đội trưởng Phòng An ninh đối ngoại (Công an tỉnh Gia Lai) chụp ảnh cùng đồng đội. Ảnh: NVCC

Cống hiến thầm lặng vì sứ mệnh cao cả

(GLO)- Hành trình "gieo hạt" hòa bình bắt đầu từ những con người bình dị. Những cống hiến thầm lặng của họ vì sứ mệnh cao cả, góp phần tích cực đưa hình ảnh đất nước và con người Việt Nam yêu chuộng hòa bình đến bạn bè quốc tế.

Giới trẻ hào hứng tham gia các khóa học làm đèn lồng Trung thu thủ công

Hồi sinh Trung thu xưa

Giữa phố phường rực rỡ ánh đèn led, đèn ông sao và mặt nạ giấy bồi bất ngờ “tái xuất”, gợi lại ký ức những mùa trăng rằm xưa. Sự trở về của Trung thu truyền thống đã manh nha trong những năm gần đây, được nhiều người trẻ hào hứng đón nhận.

Gặp người lính Thành cổ năm xưa

Gặp người lính Thành cổ năm xưa

(GLO)- Trở về từ cuộc chiến khốc liệt ở Thành cổ Quảng Trị, cựu chiến binh Hồ Anh Hòa ít khi nhắc lại kỷ niệm chiến đấu với gia đình, con cháu. Bởi ông cho rằng, việc cầm súng lao vào cuộc chiến thời điểm ấy là trách nhiệm của một người con yêu Tổ quốc, “không nên công thần”.

Các cổ vật gốm sứ chén, bát, đĩa... được ngư dân nhặt được.

Làng cổ vật

Nép mình bên eo biển Vũng Tàu, thôn Châu Thuận Biển (xã Đông Sơn, huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi) không chỉ nổi tiếng là “làng lặn Hoàng Sa” với truyền thống bám biển, giữ chủ quyền, mà còn được ví như “kho báu” lưu giữ hàng loạt cổ vật từ những con tàu đắm hàng thế kỷ dưới đáy đại dương.

'Phu sâm' ở núi Ngọc Linh

'Phu sâm' ở núi Ngọc Linh

Nhiều doanh nghiệp và người dân lên ngọn núi Ngọc Linh hùng vĩ ở TP.Đà Nẵng thuê môi trường rừng để trồng sâm, mở ra một nghề mới để đồng bào Xê Đăng bản địa mưu sinh suốt nhiều năm qua: 'phu sâm', tức nghề cõng hàng thuê.

Thầy giáo làng đam mê sưu tầm đồ xưa cũ

Thầy giáo làng đam mê sưu tầm đồ xưa cũ

(GLO)- Không chỉ bền bỉ gieo con chữ cho học trò nghèo, thầy Võ Trí Hoàn-Hiệu trưởng Trường Tiểu học và THCS Quang Trung (xã Ia Tul, tỉnh Gia Lai) còn là người đam mê sưu tầm đồ xưa cũ. Với thầy, mỗi món đồ là bài học sống động về lịch sử dân tộc mà thầy muốn kể cho học trò.

Những cây đa trăm tuổi giữa đại ngàn Kon Ka Kinh

Những cây đa trăm tuổi giữa đại ngàn Kon Ka Kinh

(GLO)- Hàng trăm năm qua, những gốc đa lặng lẽ vươn mình trong rừng già Kon Ka Kinh, thấm đủ chuyện nhân sinh để hóa thành "chứng nhân" của đại ngàn. Quần thể đa cổ thụ không chỉ tạo nên cảnh quan kỳ vĩ, mà còn trở thành di sản tinh thần gắn bó với bao thế hệ cư dân sống dựa vào rừng.

Vào mùa xoay chín

Vào mùa xoay chín

(GLO)- Sau hơn 4 năm chắt chiu nhựa sống, hấp thụ tinh hoa đất trời, những cây xoay ở cánh rừng Kbang, Sơn Lang, Đak Rong đã bung hoa kết trái. Vào mùa xoay chín, người dân cũng đón “lộc rừng”, mang về nguồn thu nhập đáng kể.

Dệt những sợi kí ức giữa đại ngàn

Dệt những sợi kí ức giữa đại ngàn

Khi sản phẩm công nghiệp ngày càng tràn ngập thị trường thì ở vùng núi rừng Đưng K’nớ (xã Đam Rông 4, tỉnh Lâm Đồng) vẫn còn những người phụ nữ cần mẫn bên khung cửi, kiên nhẫn nhuộm từng sợi chỉ, dệt từng hoa văn. Những tấm thổ cẩm ra đời từ nơi đây là hơi thở níu giữ kí ức truyền thống đại ngàn.

null