TRƯỜNG SA! TIẾNG GỌI THẲM SÂU NƠI LÒNG BIỂN - BÀI 3:

Hậu trường bếp núc trên tàu Kiểm ngư 491

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
Lênh đênh suốt một tuần trên biển, vượt qua cả ngàn hải lý, tàu Kiểm Ngư 491 trở thành ngôi nhà của chúng tôi. Hôm qua còn xa lạ nay đã thấy thân gần. Mỗi sớm mai hay khi chiều buông, gặp ai trên boong tàu đều đọng lại những nụ cười.

Có nhiều cảm xúc khi ra Trường Sa lắm, có những bữa ăn đêm muốn kéo dài mãi. Có bữa tiệc chạy mưa ướt hết áo quần…

Tàu Kiểm ngư KN-491 rời đất liền ra Trường Sa. Ảnh: Nguyễn Tuấn

Tàu Kiểm ngư KN-491 rời đất liền ra Trường Sa. Ảnh: Nguyễn Tuấn

Cơm giữa đại dương

Vì tò mò nghề nghiệp, tôi hay lẩn thẩn đến mọi ngóc ngách trên tàu Kiểm ngư 491 từ buồng lái, khu vực boong tàu khu bếp... Chiều hôm ấy, anh em tổ phục vụ đang tất bật chuẩn bị bữa cơm chiều. Bếp trưởng Trần Đức Hưng (sinh năm 1981) tay thoăn thoắt xào, nấu các món theo thực đơn. Hưng là nhân viên báo vụ nhưng lại có nhiều năm kinh nghiệm nấu ăn. Cứ có lệnh là anh lên tàu nhận nhiệm vụ bếp trưởng. Cạnh Hưng, một “anh nuôi” đang rang chảo lạc thơm lừng! Mấy ngày trên tàu tôi chẳng thèm gì, bỗng đâu mùi lạc rang khiến lòng cồn cào, nhớ những bữa cơm trưa trên đất liền luôn có bát lạc rang ngâm mắm!

Thiếu tá Trần Trung Trường, Trưởng Ban Quân nhu Chi đội Kiểm ngư số 4 - Tổ trưởng tổ phục vụ được giao đảm bảo hậu cần cho chuyến hải trình. Tất cả 17 thành viên trong tổ do anh lựa chọn đều là cán bộ quân nhân chuyên nghiệp, nhiều người chưa có vợ, đều nhiệt tình, yêu “nghề” nấu ăn! Vào tổ này phải có sức khỏe tốt, chịu được áp lực, nên dù đứng bếp, nhặt rau, rửa bát, bê mâm, đều phải do các chàng trai đảm nhiệm.

Khách đi tàu ra Trường Sa, nhà giàn DK1 được phục vụ 4 bữa/ngày, thực đơn ít khi trùng lặp, ngoài ra có món riêng cho người say sóng, có sữa tươi, trái cây, mỳ tôm để dùng khi cần.

Với khoảng 250 suất ăn mỗi bữa trong suốt chuyến đi, lượng thực phẩm cần đảm bảo không hề nhỏ.

Bếp trưởng Trần Đức Hưng (bìa trái) và tổ phục vụ đang nấu ăn. Ảnh: Nguyễn Tuấn

Bếp trưởng Trần Đức Hưng (bìa trái) và tổ phục vụ đang nấu ăn. Ảnh: Nguyễn Tuấn

Mỗi ngày, tổ trưởng, bếp trưởng, bếp phó thức dậy từ 3 giờ sáng để trù tính, xuất kho các loại thực phẩm. Nghe thì đơn giản, nhưng ngày nào các anh phải vào kho lạnh mấy lần. Đang ở ngoài 37, 38 độ vào kho lạnh âm 15, 16 độ rồi lại chạy ra, cơ thể không kịp thích nghi. Mấy ngày đầu giọng nói của Trường còn trong, đến cuối hải trình thì đã rè đi vì viêm họng! Đúng 4 giờ sáng tổ bếp “nổi lửa” để kịp có bữa sáng vào lúc 5 giờ 30. Ngay sau đó, các anh lại khẩn trương chuẩn bị bữa trưa, bữa chiều. Vừa nấu vừa bưng bê kê dọn nên anh em ít khi được nghỉ ngơi thoải mái. Buổi tối lại càng vất vả vì bữa ăn đêm khách hay ngồi lại giao lưu, có khi đến 1 giờ khuya. Bàn này xin thêm bát cháo, chỗ kia nhờ nướng con mực, thêm đồ uống, mấy quả ớt, âu trà đá… Vất vả thế nhưng anh em luôn làm hết mình, đáp ứng mọi nhu cầu của khách, thậm chí hơi quá đà, “đòi hỏi” cả những món không có trong thực đơn!

Ở trên tàu mấy ngày, thú thực không hiểu sao tôi quên hết mọi khái niệm về ngày tháng. Nhu cầu cũng khác trong đất liền. Tôi chỉ thèm đúng có hai thứ: Đó là lạc rang và trà đá! Hôm ấy tôi được anh em pha cho một âu trà đá mát lạnh, uống liền một mạch thật đã! Có những thứ khi ở trên bờ bình thường, nhưng trên tàu ra Trường Sa, bỗng trở nên rất lạ. Người ta dễ bỏ qua cả những gì chưa vừa ý, để chờ đón những điều lung linh và đẹp đẽ hơn!

Trường cho hay: Anh em tổ phục vụ hoàn toàn không qua đào tạo nghiệp vụ nấu ăn, vì nhiệm vụ và tâm huyết nên sẵn sàng vượt lên mọi khó khăn. Các anh đã góp phần để người ra đảo dù ở vị trí, cương vị nào cũng đều cảm thấy hài lòng với những bữa cơm trên tàu, có sức khỏe để hoàn thành tốt đẹp chuyến hải trình đầy ý nghĩa.

Chuyện gì lần đầu cũng khiến người ta nhớ. Với tôi bữa cơm đầu tiên trên tàu KN491 giữa trùng khơi sẽ là một kỷ niệm. Lúc mới lên tàu tôi và nhiều đại biểu còn nôn nao say sóng, nhưng bảo nhau ăn nhiều hơn để có sức khỏe và không phụ công người nấu.

Chiều hôm ấy, tôi và Tổng biên tập Báo Quân Khu Hai Đào Đức Hanh đến thăm hỏi, chuyện trò với anh em tổ bếp. Vào bếp mới cảm nhận được cái nóng, mùi thức ăn, những giọt mồ hôi và sự vất vả. Anh em chia sẻ: “Chúng em mong được gặp các anh, các chị, các em yêu mến chiến sĩ, yêu nghề nấu nướng, nếu có thời gian rảnh rỗi thì xuống hỗ trợ, chia sẻ với chiến sĩ tổ phục vụ trên Tàu kiểm ngư 491!...”.

Chị Lệ Hoa, cảm động chia sẻ nỗi vất vả của với Tổ trưởng phục vụ Trần Trung Trường (bìa trái) và Tổng biên tập báo QK2 Đào Đức Hanh

Chị Lệ Hoa, cảm động chia sẻ nỗi vất vả của với Tổ trưởng phục vụ Trần Trung Trường (bìa trái) và Tổng biên tập báo QK2 Đào Đức Hanh

Mưa vàng

Trường Sa đang vào cuối mùa khô. Nhưng thời tiết Trường Sa thật kỳ lạ. Khi chiều xuống, có những đám mây đùn lên, trời sầm xịt tưởng mưa sẽ trút xuống, nhưng rồi lại tan ra, bầu trời trong xanh như cũ. Những ngày lênh đênh trên sóng đại dương, tôi đã quen với những đám mây kỳ thú, lúc đen sẫm, khi vàng đỏ mỗi hoàng hôn, có lúc mây trắng muốt như cục bông giữa nền trời xanh thẳm. Mấy cô gái trẻ trong đoàn thường lên boong tàu chụp ảnh, ngắm hoàng hôn trên biển. Tôi thích những cơn gió biển mặn mòi mát lạnh về đêm.

Vụ “thâm nhập” nhà bếp được tôi và Đại tá Hanh ghi nhanh phát ở bản tin 22 giờ trên tàu. Không biết có phải vì nghe được bài viết ấy không mà hôm sau rất nhiều chị em xuống bếp, trong đó có chị Vân Anh - Phó Tổng biên tập báo Nam Định, NSND Hồng Phong - Nhà hát Nhạc vũ kịch Việt Nam và rất nhiều ca sỹ, diễn viên giúp nhặt rau, dọn dẹp, hỗ trợ tổ phục vụ trong suốt hải trình.

Tối hôm ấy, cả tàu được mời ăn tiệc ngoài trời (trên sân trực thăng). Khi cỗ bàn nấu xong, chuẩn bị bày ra thì cơn mưa ập đến. Mưa ngoài dự tính khiến cho bữa tiệc phải lùi lại cả giờ đồng hồ mà vẫn chưa dứt. Lúc sau, tôi thấy Trường quần áo ướt sũng thông báo: Phải thay đổi phương án! Thế là cả tàu xúm lại, hỗ trợ tổ phục vụ chuyển bàn ghế, chuyển đồ ăn về các phòng ăn như mọi ngày. Trong lúc “chạy” mưa, có chiến sỹ bị té trượt cầu thang từ tầng trên xuống, may không việc gì. Tuy phải chờ đợi, không được dự tiệc ngoài trời nhưng mọi người đều cảm thấy thật ấm áp, vui vẻ.

Cuối ngày hôm ấy, nhiều thành viên đã đến chia sẻ, động viên anh em tổ phục vụ. Nhớ lại hình ảnh các chiến sỹ vất vả ban chiều, chị Lệ Hoa (Bộ LĐTB&XH) xúc động rơi nước mắt, chị nói “thương anh em quá!”.

Tôi hỏi Thiếu tá Trần Trung Trường: Suốt cả buổi chiều nấu nướng phục vụ tàu, vì cơn mưa bất chợt mà phải dọn ra dọn vào, các anh có thấy vất vả không? Câu trả lời của Trường khiến tôi ngỡ ngàng: “Vất vả nhưng chúng em lại rất vui anh ạ!”.

Trường bảo, anh em vui vì được đón cơn mưa đầu tiên - mưa vàng ở Trường Sa. “Mưa như thế đảo mới đỡ khát, bộ đội mới có thêm nước để tắm rửa, sinh hoạt. Mưa càng to chúng em lại càng thấy vui!” - Trường nói với chúng tôi.

(Còn nữa)

Có thể bạn quan tâm

Dìu dặt Kon Chênh

Dìu dặt Kon Chênh

Dìu dặt mấy mươi năm giữ lấy vốn liếng Mơ Nâm trên chốn chênh vênh này, lão nghệ nhân đã có thể yên tâm khi văn hóa của làng mình được mọi người biết đến, nhớ đến, và đổi thay cuộc sống nhờ những điều nho nhỏ.

Đề án 06: Động lực xây dựng tỉnh nhà hiện đại, văn minh - Kỳ cuối: Tháo gỡ điểm nghẽn để về đích đúng tiến độ

Đề án 06: Động lực xây dựng Gia Lai hiện đại, văn minh - Kỳ cuối: Tháo gỡ điểm nghẽn để về đích đúng tiến độ

(GLO)- Triển khai Đề án 06 về phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022-2025, tầm nhìn đến năm 2030, các cơ quan, ban, ngành, đơn vị phối hợp chặt chẽ để tháo gỡ những điểm nghẽn, khó khăn, bất cập nhằm thực hiện đúng tiến độ.

Pháo đài Đồng Đăng - kỳ 5: Sức sống thị trấn miền biên viễn

Pháo đài Đồng Đăng - kỳ 5: Sức sống thị trấn miền biên viễn

Tự hào là mảnh đất “phên dậu” của đất nước, nơi có các di tích lịch sử oai hùng như: Pháo đài Đồng Đăng, cửa khẩu Hữu Nghị cùng các danh lam thắng cảnh nổi tiếng, thị trấn Đồng Đăng (huyện Cao Lộc, Lạng Sơn) trỗi mình sau cuộc chiến biên giới 1979, trở thành điểm đến của du khách muôn phương.

Nhân sự kiện pháo đài Đồng Đăng được công nhận di tích lịch sử quốc gia - Kỳ 3: Chứng tích bi hùng

Nhân sự kiện pháo đài Đồng Đăng được công nhận di tích lịch sử quốc gia - Kỳ 3: Chứng tích bi hùng

Đối với cư dân sống ở thị trấn miền biên viễn Đồng Đăng, những ngày tháng đối đầu với quân xâm lược tháng 2/1979 giống như những thước phim quay chậm bi thương mà hào hùng. Họ đã sống, chiến đấu cùng bộ đội hiên ngang như thành đồng lũy thép ngay tuyến đầu Tổ quốc.

Tình yêu từ chiến hào: Bất tử Pò Hèn

Tình yêu từ chiến hào: Bất tử Pò Hèn

Trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc, rất nhiều người lính đã không chỉ cống hiến xương máu, bảo vệ từng tấc đất biên cương, mà còn coi nơi mình chiến đấu là quê hương thứ 2 để ươm mầm tình yêu, cho hạnh phúc hôm nay.

Ở góc Tây Nam

Ở góc Tây Nam

Bà chủ homestay đầu tiên trên đảo Hòn Đốc (Kiên Giang) - Phương Thảo - kể hồi mới theo chồng ra đảo, ở đây cái gì cũng thiếu. Nước ngọt mỗi ngày đều phải chờ xà-lan chở từ Hà Tiên ra, mỗi nhà xách theo một can 30l ra cầu cảng nhận phát nước.

Người 'dò đường' cho lính 'mũ nồi xanh'

Người 'dò đường' cho lính 'mũ nồi xanh'

…Từ Nam Sudan, đất nước vẫn còn non trẻ và đầy rẫy bất ổn này, chúng tôi thấy những gam màu ảm đạm: màu vàng của sa mạc, màu nâu của bùn đất, màu đen của những khẩu súng và đặc biệt là hình ảnh vô cùng đáng thương của những đứa trẻ chăn bò.

"Đã có thầy ở đây..."

"Đã có thầy ở đây..."

Có thầy ở đây, trái tim trẻ thơ được sưởi ấm giữa những giông gió cuộc đời. Có cô ở đây, trẻ thơ vững bước trên hành trình gom nhặt kiến thức. Có thầy, cô ở đây, các em không chỉ học cách viết những con chữ mà còn học cách sống, cách yêu thương, cách đứng dậy sau vấp ngã…

Đổi thay ở làng phong Quy Hòa

Đổi thay ở làng phong Quy Hòa

Làng Quy Hòa, ngôi làng nhỏ nằm nép mình bên bờ biển Quy Nhơn, là nơi trú ngụ cho những bệnh nhân phong trong nhiều thập kỷ. Trải qua nhiều biến động, cùng với tiến bộ của y học, căn bệnh nan y ngày nào đã không còn là nỗi ám ảnh.