Gặp lại chị Hồng “Bình dị” ở Gia Lai

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
(GLO)- Tuần trước, tôi ra Sân bay Nội Bài để về Gia Lai. Tới giờ ra cửa, đứng dậy thì thấy ở ghế phía sau trong phòng chờ là chị Phạm Thị Hà-vợ chú Sanh, thủ trưởng cũ của tôi và nhà thơ Nguyễn Thị Hồng-tác giả 2 bài thơ “Bình dị” và “Lời tượng nhà mồ” nổi tiếng. Chị Hà bảo: “Chị nhắn tin cho em mà chưa thấy trả lời, là chị Hồng rất muốn vào Gia Lai thăm lại nơi mấy chục năm trước chị tới”.

Vụt trong tôi ký ức về một ngày mùa khô năm 1983. Lúc tôi đang thơ thẩn trong khuôn viên Ty Văn hóa-Thông tin Gia Lai-Kon Tum thì trưởng phòng bảo: “Có đoàn nhà văn của Nhà xuất bản Phụ nữ từ Hà Nội vào để đi thực tế sáng tác, muốn có người của Ty đi cùng. Trưởng ty giao cho phòng, phòng giao cho cậu. Ý cậu thế nào?”. Nghe chuyện, tôi mừng hết sức. Hồi ấy, cứ được đi xuống làng là thích, mà lại được đi với các nhà văn, làm chân “điếu đóm” cũng tự hào rồi. Đoàn do nhà văn Nguyễn Sinh-tác giả cuốn sách được giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam “Ký sự miền đất lửa”, Phó Giám đốc Nhà xuất bản Phụ nữ làm trưởng đoàn và các nhà văn Vũ Thị Hồng-vợ nhà văn Chu Lai, Trung Trung Đỉnh, Nguyễn Thị Hồng.

Nhà thơ Nguyễn Thị Hồng trong lần trở lại Gia Lai. Ảnh: Văn Công Hùng

Nhà thơ Nguyễn Thị Hồng trong lần trở lại Gia Lai. Ảnh: Văn Công Hùng

Khi ấy, đường sá về huyện chưa như bây giờ. Cuồn cuộn bụi đỏ chui vào xe, vào người. Dằng dặc hoa dã quỳ và miên man đất đỏ. Mùa khô, rét như cắt ruột, cả đoàn ngủ tại một ngôi làng thông thống gió. Đêm khuya, lạnh đến quắt tai, lộng óc, không ngủ được, mọi người ngồi dậy đốt lửa rì rầm trò chuyện. Trong bất tận những câu chuyện ấy, chị cán bộ Hội Phụ nữ huyện Chư Prông đã kể chuyện về chị Hơ Noanh-Trung đội trưởng du kích rất nổi tiếng thời chống Mỹ và có số phận cực kỳ éo le. Chồng là đội viên du kích của chị, trong một trận chống càn đã hy sinh. Nén đau thương, chị tiếp tục chỉ huy du kích chiến đấu. Theo phong tục, chị nối dây với người em chồng, cũng là du kích trong đội. Và người em chồng này sau đó hy sinh trong một trận chặn xe, để lại cho chị những đứa con và người mẹ chồng già yếu. Sau ngày đất nước hòa bình, chị lặng lẽ trở về làm rẫy nuôi con. Chị làm một ngôi nhà ở ngay bên cạnh nhà mẹ chồng, nhường toàn bộ tiêu chuẩn của cả 2 liệt sĩ cho mẹ, còn mình sống bằng làm rẫy nuôi heo.

Câu chuyện đã làm xúc động tất cả mọi người có mặt hôm ấy. Hôm sau, cả đoàn thay đổi lịch trình để đến thăm chị. Nhá nhem tối hôm sau thì chúng tôi gặp chị sau khi ngồi đợi khá lâu vì rẫy nhà chị ở rất xa. Gần như sau chuyến đi, ai cũng viết về chị Hơ Noanh. Riêng nhà thơ Nguyễn Thị Hồng, khi đến Ayun Pa thì chị hoàn thành bài thơ, ban đầu có tên là “Hơ Noanh”. Nghe chị đọc, ai cũng xúc động và thấy rằng nó hay, nhưng hình như tên bài chưa ổn. Sau một hồi, có người đề xuất lấy tên là “Màu xanh bình dị”, câu cuối của bài thơ. Nhưng đến sáng hôm sau thì nhà thơ Nguyễn Thị Hồng tuyên bố với mọi người: Tên chính thức của bài thơ là “Bình dị”. Khai thác cuộc đời một nhân vật có thật đưa vào một bài thơ, nhà thơ Nguyễn Thị Hồng đã vượt qua những chi tiết cụ thể để đạt đến tầm khái quát rất cao: “Em nguyên sơ như đất/em nguyên sơ như cây/em nguyên sơ như nắng/như gió cao nguyên này/Một màu da của đất/một cái nhìn của cây/một tâm hồn của nắng/của gió cao nguyên này”. Bài thơ vừa trữ tình cụ thể mà lại đạt đến độ hào sảng và bay bổng. Nói những điều tầm vóc mà lại thủ thỉ, nhẹ nhàng; kiệm lời mà sâu xa; hóa thân mà tách bạch. Khoảng 1 tháng sau thì Tạp chí Văn nghệ Quân đội in bài thơ này với lời đề “Tặng chị Hơ Noanh” và vài tháng sau nữa thì bài thơ đoạt giải (tôi không nhớ là giải mấy) cuộc thi thơ trên tạp chí này.

Trong chuyến đi này, nhà thơ Nguyễn Thị Hồng còn viết một bài nữa, mà theo chị và nhiều người là nó hay hơn, sâu sắc hơn, Tây Nguyên hơn, bài “Lời tượng nhà mồ”. Vừa rồi, nhà thơ Nguyễn Thị Hồng in tuyển tập thơ, trong đó có 2 bài thơ này.

Sau 40 năm, nhà thơ Nguyễn Thị Hồng trở lại Gia Lai. Tôi rủ nhà thơ Phạm Đức Long đưa chị tới một vài, chỉ một vài thôi, nơi chị đã qua. Khỏi nói chị đã xúc động và vui tới như nào. 75 tuổi, chị hăm hở đi bộ như thanh niên. Tiếc là, tôi lại có một cuộc đi mới nên đã không đưa chị xuống lại Chư Prông-nơi chị đã gặp nguyên mẫu để làm bài thơ “Bình dị”.

Có thể bạn quan tâm

Thơ Lê Thành Văn: Nghe con đọc thơ về Tổ quốc

Thơ Lê Thành Văn: Nghe con đọc thơ về Tổ quốc

(GLO)- Trong bài thơ "Nghe con đọc thơ về Tổ quốc", tác giả Lê Thành Văn để mạch cảm xúc tuôn chảy tự nhiên: từ sự rưng rưng khi nhớ về chiến tranh đến niềm tin lặng lẽ gửi gắm vào thế hệ mai sau. Bài thơ như một nhịp cầu nối liền quá khứ đau thương và hiện tại bình yên.

Thơ Lê Vi Thủy: Biên cương mùa gió

Thơ Lê Vi Thủy: Biên cương mùa gió

(GLO)- Giữa những cơn gió xào xạc của núi rừng Tây Nguyên bỏng rát, bài thơ “Biên cương mùa gió” của Lê Vi Thủy như thổi vào lòng người nỗi xúc động lặng thầm. Từ ánh mắt trẻ thơ đến no ấm buôn làng và những giọt mồ hôi người lính, tất cả hòa quyện trong khát vọng yên bình nơi địa đầu Tổ quốc.

Tổ quốc trong tim

Thơ Lenguyen: Tổ quốc trong tim

(GLO)- Bài thơ “Tổ quốc trong tim” của tác giả Lenguyen là lời tri ân sâu sắc với cha ông đã hy sinh vì độc lập dân tộc. Từ Cửu Long đến Trường Sơn, từ Điện Biên đến Sài Gòn, một Việt Nam bất khuất vươn lên giữa máu và hoa, rạng ngời sắc cờ Tổ quốc.

Thơ Đào An Duyên: Lòng quê

Thơ Đào An Duyên: Lòng quê

(GLO)- Trong nhịp sống hiện đại hối hả, bài thơ "Lòng quê" của tác giả Đào An Duyên là tiếng vọng thầm lặng mà day dứt. Người xa quê, dù ở đâu chăng nữa vẫn mang trong tim nỗi nhớ cội nguồn. Qua hình ảnh nước xuôi nước ngược, bài thơ gợi về sự gắn bó thiêng liêng giữa con người và quê hương.

Người nặng lòng với dân ca Tày

Người nặng lòng với dân ca Tày

(GLO)-Hơn 30 năm kể từ ngày rời quê hương Cao Bằng vào Gia Lai lập nghiệp, ông Mã Văn Chức (SN 1961, tổ 3, thị trấn Phú Thiện) vẫn nặng lòng với văn hóa dân tộc Tày. Hơn 100 bài hát đã được ông sáng tác theo làn điệu dân ca Tày với mong muốn “giữ lửa” cho âm nhạc dân gian.

Thơ Lữ Hồng: Những gương mặt hoa cài

Thơ Lữ Hồng: Những gương mặt hoa cài

(GLO)- Bằng hình ảnh thiên nhiên giàu biểu cảm, bài thơ "Những gương mặt hoa cài" của Lữ Hồng gợi nên vẻ đẹp bình yên ẩn sâu trong nhịp sống phố thị. Lời thơ không chỉ là hoài niệm, mà còn là nơi gửi gắm tình yêu, ký ức và những giấc mơ không lời giữa tháng năm xoay vần.

Thơ Sơn Trần: Phía Trường Sơn

Thơ Sơn Trần: Phía Trường Sơn

(GLO)- Bài thơ "Phía Trường Sơn" của Sơn Trần là khúc trầm sâu lắng về nỗi nhớ và sự hy sinh lặng thầm phía hậu phương. Tháng Tư về trên biên cương đầy cỏ xanh và chiều sương phủ trắng, nỗi nhớ hòa quyện cùng đất trời, tạo nên một bản tình ca sâu lắng dành cho cha-người lính năm xưa.

Khẳng định sức sống bất tận của văn học nghệ thuật trong đời sống tinh thần Nhân dân

Khẳng định sức sống bất tận của văn học nghệ thuật trong đời sống tinh thần Nhân dân

(GLO)- Đó là phát biểu của Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Trưởng đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Châu Ngọc Tuấn tại hội nghị tổng kết 50 năm nền văn học nghệ thuật tỉnh Gia Lai sau ngày thống nhất đất nước (30/4/1975-30/4/2025) diễn ra vào sáng 23-4 tại Hội trường 2-9 (TP. Pleiku).

Nơi “Ngọn lửa cao nguyên” rực sáng

Nơi “Ngọn lửa cao nguyên” rực sáng

(GLO)- Trong kho tàng âm nhạc Việt Nam có nhiều ca khúc không chỉ đơn thuần là tác phẩm nghệ thuật mà còn là biểu tượng của một vùng quê. Nơi ấy, tình yêu và nỗi nhớ không thể phai mờ. “Ngọn lửa cao nguyên” của nhạc sĩ Trần Tiến chính là một trong những ca khúc như thế.

“Lặng lẽ trưởng thành” cùng sách

“Lặng lẽ trưởng thành” cùng sách

(GLO)- “Dáng vẻ của một người yên lặng đọc sách khá giống với những gì tôi cảm thấy khi nghĩ về một người đang trưởng thành trong lặng lẽ”-đó là cảm nhận của chị Trần Thị Kim Phùng Thủy-Trưởng ban Điều hành dự án “Văn hóa đọc Gia Lai” về giá trị sâu bền mà sách mang lại.

Thơ Lenguyen: Mùa qua phố

Thơ Lenguyen: Mùa qua phố

(GLO)- Bài thơ "Mùa qua phố" của tác giả Lenguyen là một bức tranh dịu dàng, gợi cảm xúc, đưa người đọc bước vào không gian phố núi Pleiku trong thời khắc chuyển mùa. Với giọng điệu lãng mạn và sâu lắng, bài thơ khơi gợi vẻ đẹp bình dị nhưng đầy chất thơ của phố núi...

Con đường tất yếu

Con đường tất yếu

Vài năm trở lại đây, các sản phẩm văn hóa - nghệ thuật Việt đã được khai thác với tinh thần mới: vừa trân trọng truyền thống, vừa dấn thân khai phá cái mới.