Đời mía... đời người

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
(GLO)- Dưới nắng hè gay gắt, những ngọn mía non tơ vẫn vươn mình trỗi dậy như chính sức sống mãnh liệt của nó trên dải đất phía Đông tỉnh Gia Lai suốt gần nửa thế kỷ qua. Dẫu đôi lúc gian khó bủa vây, song cây mía vẫn được người nông dân đặc biệt coi trọng. Dường như vị ngọt của mía đã quyện hòa cùng dư vị thăng trầm của cả đời người...
1. Mới sáng sớm mà tiết trời ở xã Đak Hlơ (huyện Kbang) đã khá oi bức. Hơi nóng phả thẳng vào người khiến ông Nguyễn Cang phải liên tục đưa tay quệt những giọt mồ hôi lấm tấm trên khuôn mặt rám nắng. Khoác bộ quần áo lao động quen thuộc, ông Cang với tay lấy chiếc mũ cối đội lên đầu rồi vác cuốc ra đồng mía làm cỏ. Sau gần nửa năm, cây mía đã cao ngang người, sum suê nhánh, đem lại cho gia chủ sự kỳ vọng vào mùa vụ mới bội thu. 
Ông Cang gắn bó với cây mía từ những năm đầu đất nước thống nhất, khi nó vừa bắt đầu cắm rễ trên vùng đất Đông Gia Lai. Là công nhân của Nông trường quốc doanh Sông Ba (thuộc huyện An Khê cũ), ông ngày ngày xoay quanh cây mía từ niên vụ này qua niên vụ khác. Theo ông Cang, Nông trường lúc bấy giờ rộng chừng 6.000 ha, trải dài trên địa bàn các xã Đak Hlơ, Kông Pla (huyện Kbang) và một phần xã Thành An (thị xã An Khê ngày nay). Trong đó, diện tích trồng mía chiếm 300-500 ha, còn lại là đất trống tạo đồng cỏ tự nhiên để chăn thả khoảng 800 con bò thịt. Lúc mới thành lập vào năm 1976, Nông trường có khoảng 400 cán bộ, công nhân làm việc ở tất cả các khâu, sau tăng lên gần 800 người. 
“Ngày đó, chỉ cày đất, cắt hàng trồng mía là bằng máy, còn lại các công đoạn khác đều phải làm thủ công. Vì là cây trồng mới, giống chưa thật sự tốt, kỹ thuật trồng lẫn chăm sóc còn hạn chế nên năng suất mía chỉ đạt 40-50 tấn/ha. Mía thu hoạch xong được đưa vào xưởng chế biến và li tâm thành đường vàng, rồi sau này đến đường trắng để cung ứng ra thị trường”-ông Cang nhắc nhớ.
1- Ông Nguyễn Cang (bìa trái; thôn 3, xã Đak Hlơ, huyện Kbang) chăm sóc vườn mía của gia đình. Ảnh: Hồng Thi.
Ông Nguyễn Cang (bìa trái; thôn 3, xã Đak Hlơ, huyện Kbang) chăm sóc vườn mía của gia đình. Ảnh: Hồng Thi
Năm 1992, Nông trường quốc doanh Sông Ba giải thể. Nhiều công nhân gói ghém hành trang trở về quê nhà, riêng ông Cang vẫn chọn ở lại vùng đất này để bắt đầu cuộc sống mới. Với kinh nghiệm sẵn có, ông quyết định lập nghiệp bằng cây mía. Những hom mía giống được ông mua lại của nông trường cũ, thậm chí lặn lội xuống Bình Định, Quảng Ngãi để... săn lùng. Thời gian đầu khởi sự chẳng chút dễ dàng, đôi lúc chính ông còn thấy mình liều lĩnh. Bởi lẽ, giống mía khi đó hầu hết kém năng suất, giá đường thì lại bấp bênh. Cả xã Đak Hlơ cũng chỉ có 19 ha mía với sản lượng 760 tấn, dù thành lập trên nền tảng của một nông trường quốc doanh mía đường. Để cây mía trở thành cây hàng hóa mũi nhọn của địa phương như hôm nay là sự quyết tâm, thấm đẫm cả mồ hôi và nước mắt của bao người, trong đó có ông Cang.
Tạm dừng nhát cuốc, ông Cang đưa tay chỉ về vùng mía rộng lớn trước mặt, phấn khởi nói: “Cả xã hiện nay đã có trên 1.400 ha mía, trong đó có gần 30 ha canh tác theo mô hình cánh đồng lớn. Hầu hết bà con đã áp dụng cơ giới đồng bộ từ khâu trồng, chăm sóc đến thu hoạch. Cùng với đó, nhiều giống mía mới được nghiên cứu đã giúp tăng đáng kể năng suất, sản lượng. Thu nhập từ mía đã giúp vợ chồng tôi xây được ngôi nhà khang trang để ở; dành dụm thêm nguồn vốn đầu tư cho các con làm ăn sau khi lập gia đình. Cả vùng đất này cũng thay da đổi thịt nhờ mía”.
2. Mùa này, bơ đang chín rộ. Ông Nguyễn Thới (thôn 5, xã Thành An, thị xã An Khê) chọn những quả bơ chín mềm, căng mướt đem ra mời khách. Bên cạnh là chén đường màu nâu vàng vừa được ông tán nhuyễn để ăn kèm. “Sao chú không dùng đường cát trắng mà phải tán đường miếng vậy ạ?”-tôi hiếu kỳ hỏi. “Đường trắng thì tiện nhưng không được đậm đà như đường tán cháu à. Ngày xưa ăn với mật mía còn ngon hơn nhiều”-ông Thới mỉm cười đáp và không quên giục tôi ăn thử. Quả thật, độ ngọt béo quyện hòa vừa đủ, thật sự khác biệt với hương vị của đường cát hoặc sữa đặc mà tôi từng dùng trước đây.
Nhắc đến mật mía, ông Thới hồi tưởng: Sau Nông trường quốc doanh Sông Ba độ 3 năm, cây mía cũng bắt đầu bén rễ trên những triền đất vừa khai hoang ở xã Thành An. Lúc bấy giờ, ông cùng người dân nơi đây vẫn trồng mía cho hợp tác xã dưới hình thức các tập đoàn và liên tập đoàn. Bước vào thời kỳ đổi mới, Nhà nước giao khoán đất sản xuất cho từng hộ dân căn cứ theo số lượng lao động, gia đình ông khi ấy được cấp hơn 2,7 sào đất. Tất cả ông đều dành trồng mía. Một thời gian sau, ông mua thêm đất và nhân rộng diện tích mía lên 3 ha. 
Vợ chồng ông Nguyễn Thới (thôn 5, xã Thành An, thị xã An Khê) bên những chiếc chảo gang từng theo mình làm che mía nấu đường một thời. Ảnh: Hồng Thi
Vợ chồng ông Nguyễn Thới (thôn 5, xã Thành An, thị xã An Khê) bên những chiếc chảo gang từng theo mình làm che mía nấu đường một thời. Ảnh: Hồng Thi
Năm 1994, nhận thấy mía trong vùng đã khá nhiều, nhu cầu ép mía cũng tăng theo nên ông Thới quyết định góp vốn cùng người em trai mua chiếc che mía trị giá hơn 50 triệu đồng đi ép thuê. Trước mỗi vụ thu hoạch, tùy theo số lượng chảo nấu đường (3 chảo, 7 chảo hay 10 chảo-N.V), ông Thới mất tầm 3-4 ngày cho việc đào lò và lắp đặt đường ống. “Mía chặt đến đâu sẽ được ép nước nấu đường đến đó vì nếu để lâu sẽ khiến mía bị chua, ảnh hưởng đến chất lượng đường. Muốn đường đóng cát, khi nấu phải cho thêm vôi tôi từ vỏ ốc quắn với tỷ lệ thích hợp. Nhiên liệu đốt lò là bã mía phơi khô cùng với lá mía. Việc canh nhiệt độ lửa cũng phải thật khéo vì nếu già quá sẽ tạo thành mạch nha, còn non quá thì lâu thành đường. Mật đủ độ dẻo cần múc ra đánh đường ngay rồi để nguội. Bình quân 1 ngày 1 đêm nấu được khoảng 1,3 tấn đường. Việc ăn chia giữa chủ máy và chủ mía theo tỷ lệ 20:80 trên tổng sản lượng đường đạt được. Hồi ấy, tôi làm theo kiểu cuốn chiếu, cứ xong của nhà này lại chuyển sang nhà khác. Ăn vội, nghỉ tạm ở trên ruộng mía cho đến lúc mãn vụ mới trở về nhà”-ông Thới chia sẻ.
Nghe ông kể, bao ký ức tuổi thơ năm xưa trong tôi bất chợt ùa về. Đó là những buổi đi học tranh thủ ghé vào lò nấu đường để hít hà và thưởng thức những thìa đường non thơm ngọt, nóng hổi cùng lũ bạn; hay những đêm cầm đèn măng xông lẽo đẽo theo má gánh giỏ cơm lên lò cho ba và nhân công ăn lót dạ lấy sức nấu đường đến tận sáng hôm sau. Nghĩ đến, tôi chợt thấy mình thật may mắn khi có thể cảm nhận và lưu giữ những kỷ niệm một thời gian khổ ấy của thế hệ cha ông. Cũng giống như cách ông Thới thẳng thừng trả lời những người từng gạ hỏi mua mấy cái chảo gang nấu đường mà ông đang lưu giữ: “Chúng là cả bầu trời ký ức của tôi, mà đã là ký ức thì tôi sẽ không bao giờ bán với bất kỳ giá nào. Sau này, tôi sẽ trao lại cho các con như một kỷ vật nhắc nhớ về những tháng ngày khó khổ của cha mẹ; đồng thời, chia sẻ cho chúng những ruộng mía tươi tốt mà hiện tôi đang vun trồng để có thể tiếp tục nối dài hành trình với mía-loài cây đã góp mật nuôi chúng lớn khôn”.
3. Trời ngả bóng về chiều. Tôi tranh thủ theo chân ông Nguyễn Đình Luân (thôn 5, xã Thành An) đến mục sở thị địa điểm chế biến đường thủ công của người dân năm xưa. Ẩn dưới đám cỏ mọc um tùm là những cái hố có đường kính 1-1,2 m đã bị bồi lấp gần hết. Ông Luân bảo rằng, đây là chiếc lò che mía nấu đường cuối cùng còn hiện hữu dấu tích, minh chứng cho cả một giai đoạn sản xuất đường thủ công hưng thịnh ở địa phương này trước khi khép lại sứ mệnh lịch sử vào năm 1996. Kể từ niên vụ 1997-1998, mía thu hoạch được bà con chở xuống Quảng Ngãi bán cho nhà máy đường. Không còn tiếng máy che nổ xì xoạch bên ruộng mía cùng làn khói tỏa thơm lựng mùi đường non. Càng chẳng còn những đêm nông dân phải thức trắng chạy che nấu đường. Tất cả lùi dần vào dĩ vãng.
“Những tưởng mọi thứ đã đi vào quỹ đạo, vậy mà đùng một cái, cuộc khủng hoảng ngành mía đường vào năm 1999 khiến mía rớt giá thê thảm. Nhà máy không nhập, thương lái cũng chẳng ngó ngàng. Thậm chí gọi đến cho chặt để giải phóng đất, họ cũng lắc đầu. Chỉ một số ít hộ bán được với giá rẻ, phần lớn còn lại đều chặt mía bỏ bờ ruộng. Đến tận bây giờ, đó vẫn được xem là vụ mía đắng nhất mà chúng tôi phải đối mặt. Sau năm ấy, không ít người đã từ bỏ cây mía để chuyển sang trồng mì, bắp. Riêng tôi, vẫn tiếp tục tin tưởng và kỳ vọng vào cây trồng này cho tới nay. Dù sao, cây mía cũng đã đem lại cuộc sống ấm no hơn cho gia đình, giúp vợ chồng tôi nuôi 8 đứa con ăn học nên người. Và giờ đây, nó lại tiếp tục giúp con tôi có điều kiện để chăm lo cho các cháu”-ông Luân bộc bạch.
Ông Nguyễn Đình Luân (thôn 5, xã Thành An, thị xã An Khê) bên vườn mía của gia đình. Ảnh: Hồng Thi
Ông Nguyễn Đình Luân (thôn 5, xã Thành An, thị xã An Khê) bên vườn mía của gia đình. Ảnh: Hồng Thi
Cuối năm 2001, Nhà máy Đường An Khê (thuộc Công ty cổ phần Đường Quảng Ngãi) đứng chân trên địa bàn thôn 2 (xã Thành An) chính thức đi vào hoạt động, mở ra điều kiện thuận lợi để người dân tiếp tục gắn bó với cây mía. Tính đến niên vụ 2020-2021, 4 huyện, thị xã khu vực phía Đông tỉnh (An Khê, Kbang, Đak Pơ, Kông Chro) có 18.000 ha mía nguyên liệu cung ứng cho nhà máy này. Người trồng mía giờ đây đã biết áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất; biết tổ chức sản xuất nguyên liệu mía hàng hóa; xóa dần tập quán canh tác cũ, lạc hậu. Chính họ cũng đã xây dựng được những vùng mía chuyên canh có năng suất, chất lượng cao trên một đơn vị diện tích, thu nhập không ngừng tăng lên. 
Nhìn cái cách ông Cang, ông Thới và cả ông Luân nâng niu, chăm sóc từng cây mía; lắng nghe những câu chuyện về “đời mía-đời người”, tôi càng thấm thía lời khẳng định chắc nịch của ông Cang: “Dẫu có năm giá mía xuống thấp, mùa mía có phần... kém ngọt hơn, nhưng hầu hết bà con chưa bao giờ có ý định phá bỏ. Chính cây mía đã từng mang lại cho chúng tôi cuộc sống tốt đẹp cả về vật chất lẫn tinh thần trong suốt mấy chục năm qua. Đó là điều không ai có thể phủ nhận!”.
HỒNG THI

Có thể bạn quan tâm

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

(GLO)- Giữa bao thiếu thốn của vùng đất Pờ Tó, có một người thầy lặng lẽ, bền bỉ gieo yêu thương cho học trò nghèo. Thầy không chỉ dạy chữ mà còn khởi xướng nhiều mô hình sẻ chia đầy ý nghĩa như: “Tủ bánh mì 0 đồng”, “Mái ấm cho em”, “Trao sinh kế cho học trò nghèo”.

Trung tá Cao Tấn Vân (thứ 2 từ phải sang)-Phó Đội trưởng Phòng An ninh đối ngoại (Công an tỉnh Gia Lai) chụp ảnh cùng đồng đội. Ảnh: NVCC

Cống hiến thầm lặng vì sứ mệnh cao cả

(GLO)- Hành trình "gieo hạt" hòa bình bắt đầu từ những con người bình dị. Những cống hiến thầm lặng của họ vì sứ mệnh cao cả, góp phần tích cực đưa hình ảnh đất nước và con người Việt Nam yêu chuộng hòa bình đến bạn bè quốc tế.

Giới trẻ hào hứng tham gia các khóa học làm đèn lồng Trung thu thủ công

Hồi sinh Trung thu xưa

Giữa phố phường rực rỡ ánh đèn led, đèn ông sao và mặt nạ giấy bồi bất ngờ “tái xuất”, gợi lại ký ức những mùa trăng rằm xưa. Sự trở về của Trung thu truyền thống đã manh nha trong những năm gần đây, được nhiều người trẻ hào hứng đón nhận.

Gặp người lính Thành cổ năm xưa

Gặp người lính Thành cổ năm xưa

(GLO)- Trở về từ cuộc chiến khốc liệt ở Thành cổ Quảng Trị, cựu chiến binh Hồ Anh Hòa ít khi nhắc lại kỷ niệm chiến đấu với gia đình, con cháu. Bởi ông cho rằng, việc cầm súng lao vào cuộc chiến thời điểm ấy là trách nhiệm của một người con yêu Tổ quốc, “không nên công thần”.

Các cổ vật gốm sứ chén, bát, đĩa... được ngư dân nhặt được.

Làng cổ vật

Nép mình bên eo biển Vũng Tàu, thôn Châu Thuận Biển (xã Đông Sơn, huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi) không chỉ nổi tiếng là “làng lặn Hoàng Sa” với truyền thống bám biển, giữ chủ quyền, mà còn được ví như “kho báu” lưu giữ hàng loạt cổ vật từ những con tàu đắm hàng thế kỷ dưới đáy đại dương.

'Phu sâm' ở núi Ngọc Linh

'Phu sâm' ở núi Ngọc Linh

Nhiều doanh nghiệp và người dân lên ngọn núi Ngọc Linh hùng vĩ ở TP.Đà Nẵng thuê môi trường rừng để trồng sâm, mở ra một nghề mới để đồng bào Xê Đăng bản địa mưu sinh suốt nhiều năm qua: 'phu sâm', tức nghề cõng hàng thuê.

Thầy giáo làng đam mê sưu tầm đồ xưa cũ

Thầy giáo làng đam mê sưu tầm đồ xưa cũ

(GLO)- Không chỉ bền bỉ gieo con chữ cho học trò nghèo, thầy Võ Trí Hoàn-Hiệu trưởng Trường Tiểu học và THCS Quang Trung (xã Ia Tul, tỉnh Gia Lai) còn là người đam mê sưu tầm đồ xưa cũ. Với thầy, mỗi món đồ là bài học sống động về lịch sử dân tộc mà thầy muốn kể cho học trò.

Những cây đa trăm tuổi giữa đại ngàn Kon Ka Kinh

Những cây đa trăm tuổi giữa đại ngàn Kon Ka Kinh

(GLO)- Hàng trăm năm qua, những gốc đa lặng lẽ vươn mình trong rừng già Kon Ka Kinh, thấm đủ chuyện nhân sinh để hóa thành "chứng nhân" của đại ngàn. Quần thể đa cổ thụ không chỉ tạo nên cảnh quan kỳ vĩ, mà còn trở thành di sản tinh thần gắn bó với bao thế hệ cư dân sống dựa vào rừng.

Vào mùa xoay chín

Vào mùa xoay chín

(GLO)- Sau hơn 4 năm chắt chiu nhựa sống, hấp thụ tinh hoa đất trời, những cây xoay ở cánh rừng Kbang, Sơn Lang, Đak Rong đã bung hoa kết trái. Vào mùa xoay chín, người dân cũng đón “lộc rừng”, mang về nguồn thu nhập đáng kể.

Dệt những sợi kí ức giữa đại ngàn

Dệt những sợi kí ức giữa đại ngàn

Khi sản phẩm công nghiệp ngày càng tràn ngập thị trường thì ở vùng núi rừng Đưng K’nớ (xã Đam Rông 4, tỉnh Lâm Đồng) vẫn còn những người phụ nữ cần mẫn bên khung cửi, kiên nhẫn nhuộm từng sợi chỉ, dệt từng hoa văn. Những tấm thổ cẩm ra đời từ nơi đây là hơi thở níu giữ kí ức truyền thống đại ngàn.

Dặm dài Trường Lũy

Dặm dài Trường Lũy

(GLO)- Trường Lũy là một phức hợp bao gồm: lũy-bảo (đồn)-đường, hình thành từ thời chúa Nguyễn, xây dựng quy mô dưới triều Nguyễn; đi qua địa phận 3 tỉnh trước đây: Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định.

Tuyến 500kV Lào Cai - Vĩnh Yên, những ngày về đích: Cứ điểm dưới chân Hoàng Liên Sơn

Tuyến 500kV Lào Cai - Vĩnh Yên, những ngày về đích: Cứ điểm dưới chân Hoàng Liên Sơn

Trạm biến áp 500kV Lào Cai đang gấp rút hoàn thiện để trở thành điểm khởi đầu của tuyến đường dây 500kV Lào Cai - Vĩnh Yên. Đây là mắt xích chiến lược trong hành trình đưa nguồn điện dồi dào, đặc biệt là thủy điện ở Tây Bắc, vượt núi băng rừng về xuôi để hòa vào lưới điện quốc gia.

Viết giữa mùa măng rừng

Viết giữa mùa măng rừng

(GLO)- Vào tháng 7 đến tháng 11 hằng năm, khi những cơn mưa đầu mùa bắt đầu trút xuống, cũng là lúc người dân vùng cao nguyên Gia Lai lội suối, băng rừng để hái măng - thứ sản vật được người Jrai, Bana gọi là “lộc rừng”.

Vũ Văn Tam Lang & 50 cây violon đặc chế

Vũ Văn Tam Lang và 50 cây violon đặc chế

(GLO)- Cách đây vài năm, khi ngắm 22 cây đàn violon do ông Vũ Văn Tam Lang (phường An Phú, tỉnh Gia Lai) chế tác bằng tất cả tâm huyết được giới chuyên môn đánh giá cao, tôi thầm nghĩ, ông đã có thể tự hài lòng với những gì mình có.

Giữ mãi ngọn lửa hồng cách mạng

Giữ mãi ngọn lửa hồng cách mạng

(GLO)- Cuộc trò chuyện với hai nhân chứng sống - ông Hoàng Văn Tuyển và bà Huỳnh Thị Kim Xuyên đã đưa chúng ta trở lại những năm tháng kháng chiến đầy gian khổ, nơi tinh thần yêu nước và khát vọng cống hiến đã viết nên những trang đời đáng nhớ.

Xanh hóa các chốt dân quân thường trực

Xanh hóa các chốt dân quân thường trực

(GLO)- Khi mới xây dựng, các chốt chiến đấu dân quân thường trực biên giới chỉ có công sự, trận địa chiến đấu. Nhờ bàn tay lao động cần cù của cán bộ, chiến sĩ, chốt được phủ xanh bởi bồn hoa, cây cảnh, thảm cỏ, cây xanh và có vườn tăng gia, ao cá, tạo thêm nét đẹp ở nơi biên cương.

null