Đời giếng, phận người

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

Đằng sau những gàu nước trong veo, thanh mát luôn thấm đẫm bao giọt mồ hôi của những phận người gắn đời mình với giếng cổ.

Trời vừa hừng đông, đảo Lý Sơn (tỉnh Quảng Ngãi) ngập tràn không khí nhộn nhịp của mùa du lịch biển. Từng tốp du khách nối nhau lên ngọn núi Thới Lới hùng vĩ để đón tia nắng bình minh. Xa xa, khuất sau lùm cỏ hoang dại um tùm ven kè chắn sóng, hình ảnh ông lão bên giếng cổ hiện lên với sự khoan thai, mộc mạc như đánh tan nhịp điệu hối hả của tinh mơ trên đảo.

 

Ngày nào cũng vậy, ông Dương Kiên hì hục với 4 can nước đầy từ giếng cổ.
Ngày nào cũng vậy, ông Dương Kiên hì hục với 4 can nước đầy từ giếng cổ.

Âu cũng là cái nghiệp

Người đàn ông ấy là Dương Kiên (72 tuổi; ngụ thôn Đông, xã An Vĩnh) - người được mệnh danh là "đệ nhất phu nước" ở Lý Sơn.

Bên giếng cổ Xó La, ông Kiên gắng gồng đôi tay chai sần và đã không còn rắn chắc. Thả chiếc gàu lọt thỏm xuống mặt nước, khua tay đảo đều đôi ba vòng, ông bặm môi, 2 tay ghì chặt sợi dây rồi gắng sức mới có thể nhấc bổng gàu nước đầy tràn lên khỏi miệng giếng.

Phả làn hơi thở hổn hển, gương mặt lộ những nếp nhăn, ông gượng nở nụ cười giải thích với chúng tôi: "Độ 10 năm trước, mấy gàu nước này chẳng nhằm nhò gì với tôi. Thậm chí, 2 tay tôi có thể kéo cùng lúc 2 gàu. Tính ra cũng ngót nghét 40 năm tôi hành nghề này ở giếng cổ Xó La. Đây là giếng được xây dựng từ thời vua Gia Long".

Ông Kiên tâm sự rằng đến với nghề là duyên, còn tự nhiên nó vận vào như một sợi dây buộc chặt hàng chục năm trời. Âu cũng là cái nghiệp. Chuyện bắt đầu từ sau năm 1975, cả gia đình dắt díu nhau rời đảo mà đi làm ăn. Lên Tây Nguyên được đôi ba năm kiếm kế sinh nhai, thất bát thì lại kéo nhau về nơi chôn nhau cắt rốn.

"Hồi đó, tay trắng. Đặt chân về lại đảo tủi hổ lắm. Thế rồi tình cờ thấy một số người trong thôn tay xách nách mang lỉnh kỉnh thùng ra giếng Xó La múc nước đổi cho bà con thôn khác lấy tiền nên tôi làm theo. Dần dà, cuộc sống ổn định nhờ nghề đổi nước nên vợ chồng dẹp bỏ hẳn ý nghĩ tha phương cầu thực. Cơm ăn, áo mặc của 2 vợ chồng cùng 6 đứa con cũng nhờ vào nguồn nước vô tận ở giếng cổ đem lại. Hồi xưa còn gánh bộ 2 thùng trên vai, tầm 20 năm đổ lại đây thì chở bằng xe đạp" - ông Kiên bộc bạch.

Trên nẻo đường mưu sinh, song hành cùng "đệ nhất phu nước" Dương Kiên trước đây luôn có hình bóng của người vợ - bà Phan Thị Ý. Bà cũng là một phụ nữ có tuổi nghề đổi nước xếp vào hàng bậc nhất. Căn bệnh thần kinh tọa quái ác đày đọa khiến bà từ giã cái nghề đã đeo bám 2 vợ chồng suốt mấy chục năm qua.

 

Cùng với ông Kiên, ông Mai Văn Thu cũng là phu nước hiếm hoi còn bám trụ với nghề.
Cùng với ông Kiên, ông Mai Văn Thu cũng là phu nước hiếm hoi còn bám trụ với nghề.

Đổi nước kiếm cơm

Khi bóng lão Kiên khuất dần về phía cảng, một "phu nước" khác sẽ đến giếng cổ. Đó là ông Mai Văn Thu, 53 tuổi - người có thâm niên với nghề này không thua kém ông Kiên.

Cùng chiếc xe đạp cà tàng lộ nguyên bộ khung gỉ sắt, ông Thu luôn hiện diện với 4 can nhựa. Đôi chân ông khập khiễng, gương mặt méo xệch một bên khiến ai nhìn cũng thương cảm. Động tác ông không còn nhanh nhẹn, mỗi lần thả dây chỉ thu về lưng chừng gàu nước. Kéo được gàu nước lên, phải nghỉ một lúc ông mới đổ được vào trong miệng thùng. Hình ảnh ấy đã trở nên quen thuộc với người dân đảo Lý Sơn.

Không ai nhớ chính xác ông Thu gắn bó với nghề này bao nhiêu năm? Họ chỉ nhớ ông từng là chàng ngư dân trẻ, sau một lần vươn khơi bất ngờ lên cơn sốt thập tử nhất sinh nên không còn gắn bó với nghề đánh bắt hải sản. Từ đó, dân trên đảo quen hình ảnh một ông Thu cần mẫn với nghiệp đổi nước kiếm cơm.

Ông Thu kể giọng đượm buồn: "Cách đây 20 năm, tai ương bất ngờ giáng xuống khiến một nửa cơ thể tôi gần như tê liệt. Những tưởng sẽ thành kẻ vô dụng làm khổ vợ con nhưng cơ duyên đã đưa tôi đến với nghề phù hợp với thể trạng của mình. Gồng gánh trên vai cuốc bộ 4-5 km như người ta thì tôi bất lực. Đúng là cái khó ló cái khôn, sau này, tôi nghĩ ra cách vận chuyển nước bằng xe đạp. Dù không nhanh nhưng cứ tà tà dắt bộ cũng tới nơi. Nói không ngoa chứ tôi hành nghề này cũng trên dưới 18 năm. Đêm hôm khuya khoắt, bật dậy xách thùng ra giếng để chở nước mang đến cho người ta. Sập tối mới lọ mọ về nhà. Ở đây, mọi người gọi cái nghề của tụi tôi là nghề đổi nước kiếm cơm chứ chẳng ai bảo đi gánh nước bán".

 

Du khách rất ấn tượng

Trong không gian thiêng liêng của đình làng An Vĩnh trên đảo Lý Sơn, nơi hằng năm tổ chức lễ khao lề thế lính Hoàng Sa, bức ảnh chụp vợ chồng ông Dương Kiên và ông Mai Văn Thu được treo trịnh trọng. Du khách thập phương đến tham quan đảo thường rất ấn tượng với 2 "phu nước" giếng cổ này.

Ông Thu kể thời gian đầu, khi mới chân ướt chân ráo vào nghề, mỗi thùng nước đổi cho các hộ dân phục vụ sinh hoạt chỉ có giá 1.000 đồng và bây giờ là gần 8.000 đồng. Trước đây cũng nhiều người làm nhưng vì thức khuya dậy sớm, công sức đổ ra nhiều nhưng đồng tiền thu lại chẳng là bao nên dần dà bỏ nghề. Bây giờ thì chỉ còn ông và ông Kiên.

"Trước đây có 6 người. Ngoài tôi và ông Kiên còn 4 người chạy xe máy chở nước. Bây giờ, chỉ còn tôi và ông Kiên kéo nước đổi cho các hàng quán, nhà dân sinh hoạt. Nói không phải phụ chứ dù bèo bọt, vất vả thức dậy từ canh khuya nhưng gia đình tôi cũng có cơm ăn, áo mặc. Tất cả đều trông cậy vào nguồn nước không bao giờ cạn ở Xó La. Trung bình một ngày, tôi làm 3 chuyến, mỗi chuyến 4 thùng. Mỗi ngày công kiếm được gần 100.000 đồng. Hai vợ chồng chắt chiu, vun vén với quyết tâm nuôi đứa con 10 tuổi ăn học thành tài" - ông Thu trải lòng.

Theo nld

Có thể bạn quan tâm

Dìu dặt Kon Chênh

Dìu dặt Kon Chênh

Dìu dặt mấy mươi năm giữ lấy vốn liếng Mơ Nâm trên chốn chênh vênh này, lão nghệ nhân đã có thể yên tâm khi văn hóa của làng mình được mọi người biết đến, nhớ đến, và đổi thay cuộc sống nhờ những điều nho nhỏ.

Những người mẹ đặc biệt

Những người mẹ đặc biệt

Lặng lẽ tồn tại suốt gần 60 năm qua, cô nhi viện Phú Hòa (xã Tịnh Ấn Tây, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi) được nhiều người gọi với cái tên “ngôi nhà đặc biệt”, bởi nơi đây có những phụ nữ hy sinh cả đời để trở thành mẹ của hàng trăm đứa trẻ mồ côi, khuyết tật, bị bỏ rơi...

Pháo đài Đồng Đăng được công nhận Di tích Lịch sử Quốc gia - Kỳ 4: Ba ngày đêm máu lửa

Pháo đài Đồng Đăng được công nhận Di tích Lịch sử Quốc gia - Kỳ 4: Ba ngày đêm máu lửa

Cùng với mục tiêu đánh chiếm pháo đài Đồng Đăng, quân địch dồn lực lượng để bao vây, đánh chiếm cứ điểm hang Đền Mẫu án ngữ con đường dẫn đến thị trấn Đồng Đăng. Tại đây, quân và dân địa phương đã kiên cường bám trụ 3 ngày đêm chống lại quân xâm lược.

Nhân sự kiện pháo đài Đồng Đăng được công nhận di tích lịch sử quốc gia - Kỳ 3: Chứng tích bi hùng

Nhân sự kiện pháo đài Đồng Đăng được công nhận di tích lịch sử quốc gia - Kỳ 3: Chứng tích bi hùng

Đối với cư dân sống ở thị trấn miền biên viễn Đồng Đăng, những ngày tháng đối đầu với quân xâm lược tháng 2/1979 giống như những thước phim quay chậm bi thương mà hào hùng. Họ đã sống, chiến đấu cùng bộ đội hiên ngang như thành đồng lũy thép ngay tuyến đầu Tổ quốc.

Tình yêu từ chiến hào: Bất tử Pò Hèn

Tình yêu từ chiến hào: Bất tử Pò Hèn

Trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc, rất nhiều người lính đã không chỉ cống hiến xương máu, bảo vệ từng tấc đất biên cương, mà còn coi nơi mình chiến đấu là quê hương thứ 2 để ươm mầm tình yêu, cho hạnh phúc hôm nay.

Cán bộ Công an phường Phù Đổng (TP. Pleiku) hướng dẫn nhân viên Khách sạn Khánh Linh đăng ký lưu trú qua phần mềm dịch vụ công trực tuyến. Ảnh: T.T

Đề án 06: Động lực xây dựng Gia Lai hiện đại, văn minh - Kỳ 1: Khi hệ thống chính trị cùng vào cuộc

(GLO)- Ngày 6-1-2022, Thủ tướng Chính phủ ký ban hành Quyết định số 06/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022-2025, tầm nhìn đến năm 2030” (Đề án 06).

Rừng dừa Kinh Giang

Rừng dừa Kinh Giang

Rừng dừa nước bên bờ dòng Kinh Giang, xã Tịnh Khê (TP.Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi) gắn liền với lịch sử kháng chiến thống nhất đất nước. Hiện đây là nơi mưu sinh của người dân và là điểm du lịch hấp dẫn.

"Đã có thầy ở đây..."

"Đã có thầy ở đây..."

Có thầy ở đây, trái tim trẻ thơ được sưởi ấm giữa những giông gió cuộc đời. Có cô ở đây, trẻ thơ vững bước trên hành trình gom nhặt kiến thức. Có thầy, cô ở đây, các em không chỉ học cách viết những con chữ mà còn học cách sống, cách yêu thương, cách đứng dậy sau vấp ngã…