Di sản gốm cổ Quảng Đức ở Tây Nguyên

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
(GLO)- Gốm cổ Quảng Đức là một trong những di sản văn hóa không chỉ riêng của tỉnh Phú Yên mà còn lan tỏa, ảnh hưởng đến đời sống văn hóa của cộng đồng các dân tộc thiểu số (DTTS) ở Tây Nguyên. Di sản ấy đã góp phần làm cho văn hóa Tây Nguyên thêm phong phú và đa dạng.

Các DTTS ở Tây Nguyên chưa phát triển kỹ thuật làm gốm, các sản phẩm từ gốm phần lớn được đưa từ nhiều nơi đến thông qua các hình thức trao đổi, mua bán. Trong đó, dòng gốm Quảng Đức với sự đa dạng về sản phẩm với những đặc trưng riêng chiếm giữ một số lượng khá lớn và trở thành di sản không thể thiếu trong đời sống của con người trên vùng đất này.

Bầu đựng rượu gốm Quảng Đức đang lưu giữ tại Bảo tàng tỉnh Gia Lai. Ảnh: X.T

Bầu đựng rượu gốm Quảng Đức đang lưu giữ tại Bảo tàng tỉnh Gia Lai. Ảnh: X.T

Gốm Quảng Đức là một làng nghề truyền thống được hình thành khá sớm, khoảng cuối thế kỷ XVII-đầu thế kỷ XVIII, nay thuộc xã An Thạch, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên. Đây là sự tiếp nối của dòng gốm Gò Sành trong lịch sử. Trải qua một thời gian dài phát triển rực rỡ, “vào thập niên 60 thế kỷ XX, gốm Quảng Đức chấm dứt việc chế tác theo lối truyền thống, do nhiều gia đình trong làng phải tản cư bởi chiến tranh” (theo “Gốm Nam Trung Bộ” của tác giả Nguyễn Đình Chúc, Trần Thanh Hưng, Nhà xuất bản Đà Nẵng).

Sản phẩm gốm cổ Quảng Đức khá đa dạng về chủng loại từ nhỏ đến lớn như: nậm rượu, bình vôi, hũ, thống, chậu hoa, và đặc biệt là các loại ché lớn-nhỏ có mặt với số lượng khá lớn. Nét đặc trưng của gốm cổ Quảng Đức là dấu vết vỏ sò bám dính trên sản phẩm tạo nên sự khác biệt. Việc cho sò huyết đầm Ô Loan vào trong quá trình nung nhằm vừa tăng thêm sức nóng vừa như một thứ phụ gia đã cho ra nhiều sản phẩm mang màu sắc đặc trưng. Men của các sản phẩm từ dòng gốm này có nhiều màu như: màu đỏ, màu tro, xanh đồng, xanh dương, trắng đục… nhưng cơ bản và nổi trội hơn cả là màu đen và da lươn.

Tây Nguyên là vùng đất còn bảo lưu nhiều yếu tố văn hóa truyền thống gắn với diễn trình lịch sử từ bao đời mà ít nơi nào có được. Bên cạnh các đặc trưng văn hóa mang tính bản địa, nhiều yếu tố văn hóa khác du nhập và tiếp biến, trở thành những thành tố quan trọng tạo nên bản sắc văn hóa Tây Nguyên. Việc lưu giữ và sử dụng với số lượng lớn sản phẩm gốm cổ Quảng Đức trong đời sống cộng đồng của các DTTS ở Tây Nguyên là minh chứng cho quá trình giao lưu, tiếp biến văn hóa giữa miền ngược và miền xuôi. Mối giao thương giữa 2 miền được thiết lập trên một mạng lưới kinh tế đặc thù, các nhà nghiên cứu gọi là “mạng lưới trao đổi ven sông” (theo “Nghệ thuật Chăm Pa nghiên cứu kiến trúc và điêu khắc đền-tháp” của tác giả Trần Kỳ Phương, Nhà xuất bản Thế giới).

Người miền ngược đưa các sản phẩm như lâm sản, thổ sản, trầm hương, súc vật… để trao đổi những nguồn hàng thiết yếu như muối, cá khô, nước mắm và đặc biệt là các sản phẩm được làm từ gốm sứ tại các lò gốm ở vùng Nam Trung Bộ, trong đó có gốm Quảng Đức. Hiện gốm Quảng Đức vẫn còn là một ẩn số trên thị trường giao thương quốc tế, nhưng ở trong nước sản phẩm của dòng gốm này luôn được người dân các vùng lân cận ưa chuộng, nhất là ở Tây Nguyên.

Gia Lai là vùng tiếp giáp, đồng thời có sông Ba là tuyến đường thủy nội địa quan trọng nối liền với Phú Yên, nên sản phẩm gốm cổ Quảng Đức hiện diện ở Gia Lai có số lượng phong phú hơn so với các vùng khác ở Tây Nguyên. Sản phẩm gốm cổ Quảng Đức có mặt ở Gia Lai gồm nhiều loại hình như: nậm rượu, bình vôi, hũ thủy trì, chum, ché, mỗi một sản phẩm đều có những chức năng và giá trị khác nhau. Với các DTTS ở Tây Nguyên, ngoài chức năng sử dụng các sản phẩm gốm sứ mang những giá trị khác quan trọng hơn, được xem là vật gia bảo dùng để chia của, là vật lưu truyền đời thế hệ này sang thế hệ khác, là vật gắn liền với những nghi lễ tâm linh. Đặc biệt, đối với ché-đồ vật luôn được người tại chỗ quý trọng không chỉ bởi trị giá mà còn là niềm tin vào sức mạnh của thần linh trú ngụ ở ché. Họ quan niệm rằng, ché có sự trú ngụ của thần linh, ché càng cổ sức mạnh của thần linh càng mạnh.

Ché Quảng Đức với đặc trưng dấu vế vỏ sò bám dính trên sản phẩm đang lưu giữ tại sưu tập tư nhân Lê Tấn Khoang, huyện Đak Đoa. Ảnh: Xuân Toản

Ché Quảng Đức với đặc trưng dấu vế vỏ sò bám dính trên sản phẩm đang lưu giữ tại sưu tập tư nhân Lê Tấn Khoang, huyện Đak Đoa. Ảnh: Xuân Toản

Sự có mặt với số lượng khá lớn trên vùng đất Tây Nguyên chứng tỏ nhu cầu sử dụng của người dân đối với sản phẩm làm từ gốm tương đối lớn. Vì vậy, thị trường Tây Nguyên luôn được các lò gốm vùng duyên hải Nam Trung Bộ quan tâm. Cùng với việc thể hiện mối giao lưu, ảnh hưởng về văn hóa, xét trên một khía cạnh nhất định, việc giao lưu trao đổi các sản phẩm gốm cổ Quảng Đức với người Tây Nguyên cũng được xem là quá trình giao lưu trao đổi về kinh tế. Bởi, người Tây Nguyên luôn xem các sản phẩm làm từ gốm như những mặt hàng tiêu biểu, có giá trị cao. Bên cạnh mua về để sử dụng (số lượng ít), mục đích chính là cất trữ, lưu giữ như là một tài sản quý hoặc làm của hồi môn cho con cái khi lập gia đình. Sự có mặt của gốm cổ Quảng Đức ở Tây Nguyên còn thể hiện tư duy thẩm mỹ của cộng đồng nơi đây phát triển và đạt đến một trình độ nhất định bởi những giá trị về mỹ thuật cũng như kỹ thuật chế tác mang tính đặc trưng của dòng gốm cổ vang bóng một thời trong lịch sử.

Ông bình vôi gốm Quảng Đức đang lưu giữ tại sưu tập tư nhân Lê Tấn Khoang, huyện Đak Đoa. Ảnh: Xuân Toản

Ông bình vôi gốm Quảng Đức đang lưu giữ tại sưu tập tư nhân Lê Tấn Khoang, huyện Đak Đoa. Ảnh: Xuân Toản

Có thể khẳng định, các sản phẩm gốm cổ Quảng Đức trên mảnh đất Tây Nguyên không những minh chứng cho mối quan hệ giao thương, trao đổi giữa người miền ngược với miền xuôi mà nó còn biểu hiện các giá trị về lịch sử, văn hóa, tín ngưỡng trong đời sống của cộng đồng các DTTS nơi đây. Và, chính những phong tục, tập quán của người Tây Nguyên đã góp phần gìn giữ và lưu truyền giá trị di sản gốm cổ Quảng Đức đến hôm nay.

Có thể bạn quan tâm

Dùng mặt nạ kỹ thuật số để phục hồi tranh. (Ảnh: Franetic)

Công nghệ đột phá phục chế tranh cổ chỉ trong vài giờ

(GLO)-Với những bức tranh có niên đại hàng thế kỷ, bị hỏng nặng, việc phục chế gặp nhiều rủi ro và tiêu tốn thời gian. Một bước đột phá về công nghệ vừa được các nhà khoa học thử nghiệm thành công, đã giải quyết được khó khăn này, đó là phương pháp mặt nạ kỹ thuật số.

Đừng để giấc mơ Tây Nguyên ngủ yên trên đỉnh đồi

(GLO)- Người Tây Nguyên làm du lịch không chỉ bằng khu nghỉ dưỡng, mà còn bằng lòng hiếu khách và nghệ thuật kể chuyện. Vậy nên, đừng để giấc mơ Tây Nguyên ngủ yên trên đỉnh đồi mà hãy đánh thức nó bằng chính giọng nói của rừng, bằng bàn tay của bà con và bằng tình yêu với buôn làng của mình.

Qua xứ trầm hương: Di sản văn hóa từ miền duyên hải Khánh Hòa - Bài 1: Di sản văn hóa từ miền duyên hải

Qua xứ trầm hương: Di sản văn hóa từ miền duyên hải Khánh Hòa - Bài 1: Di sản văn hóa từ miền duyên hải

“Khánh Hòa là xứ trầm hương/Non cao biển rộng người thương đi về” - những câu thơ của nhà nghiên cứu Quách Tấn trong biên khảo Xứ trầm hương vừa là sự khẳng định danh xưng của một miền đất, vừa như lời mời gọi lữ khách bốn phương tìm về với thủ phủ của trầm hương Việt Nam.

Kể chuyện buôn làng bằng thanh âm sáo trúc

Kể chuyện buôn làng bằng thanh âm sáo trúc

(GLO)- Ở buôn E Kia (xã Ia Rsai, huyện Krông Pa), ông Hiao Thuyên được biết đến là một nghệ nhân tài hoa khi giỏi cả sáo trúc, biểu diễn cồng chiêng, hát dân ca... Bằng những việc làm thiết thực, ông đã góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc Jrai và xây dựng khối đại đoàn kết ở buôn làng.

Tây Nguyên: Nhịp sống mới dưới những nếp nhà xưa

Tây Nguyên: Nhịp sống mới dưới những nếp nhà xưa

Nhắc đến đại ngàn Tây Nguyên, có lẽ biểu tượng văn hóa “sừng sững” chính là những mái nhà rông, nhà dài truyền thống của đồng bào các dân tộc. Trong những biến chuyển của thời đại, không gian che chở các hộ gia đình và lan tỏa văn hóa cộng đồng ấy khó tránh khỏi những hư hao, nghiêng ngả.

Đa dạng lễ cúng cầu mưa của người Jrai

Đa dạng lễ cúng cầu mưa của người Jrai

(GLO)- Tuy có sự phát triển của hệ thống thủy lợi song lễ cúng cầu mưa vẫn đóng vai trò quan trọng trong đời sống cư dân vùng thung lũng Cheo Reo. Sự đa dạng trong nghi thức cúng của mỗi cộng đồng dân cư đã góp phần làm phong phú thêm đời sống văn hóa đồng bào các dân tộc Tây Nguyên.

Biểu tượng vũ trụ trên cây nêu của người Bahnar

Biểu tượng vũ trụ trên cây nêu của người Bahnar

(GLO)- Người Bahnar quan niệm rằng mọi sự vật, hiện tượng đều có sự hiện diện của thần linh và con người phải tôn trọng, thờ cúng. Vì vậy, họ có nếp sống, sinh hoạt văn hóa với hệ thống lễ hội vô cùng phong phú, gắn với vòng đời người và chu kỳ canh tác nông nghiệp.

Những người “giữ lửa” văn hóa Jrai, Bahnar

Những người “giữ lửa” văn hóa Jrai, Bahnar

(GLO)- Ông Rmah Aleo (làng Pan, xã Dun, huyện Chư Sê) và ông Ayó (làng Piơm, thị trấn Đak Đoa, huyện Đak Đoa, tỉnh Gia Lai) là những người “giữ lửa” và lan tỏa bản sắc văn hóa dân tộc đến cộng đồng buôn làng.

null