"Đại thụ" biển khơi của vùng gió cát

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
Cầm trên tay kỷ vật được Liên đoàn Lao động Việt Nam trao tặng, ông ngược dòng thời gian, nhắc lại những ngày đầu cùng với anh em BĐBP và cán bộ ở Liên đoàn Lao động huyện bàn tính kế hoạch ra mắt Nghiệp đoàn nghề cá. Ông bảo, đời ông sung sướng nhất là lúc này, được nhìn thấy lớp trẻ trong làng làm chủ những con tàu dài hơn 20m, công suất cả ngàn mã lực, kết nối nhau làm ăn, hiên ngang vượt sóng, vượt gió ra khơi. Ông là Trà Chí Thu, mọi người hay gọi là Ba Thu, Chủ tịch Nghiệp đoàn nghề cá thị trấn Hòa Hiệp Trung, huyện Đông Hòa, tỉnh Phú Yên.
 
Lão ngư Trà Chí Thu với kỷ vật được Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam trao tặng. Ảnh: Phương Oanh
Nghiệp biển
Căn nhà cấp 4 của lão ngư Trà Chí Thu xây dựng đã 32 năm, bức tường vôi đã xỉn màu thời gian, nhưng với người dân của làng cát Hòa Hiệp Trung, đây là nơi đầy ắp tình người. Anh em ngư dân trẻ sau mỗi chuyến biển thường quy tụ về đây, ngồi bên ông thổ lộ những câu chuyện đời, chuyện nghề, trao đổi tình hình biển, chia sẻ kinh nghiệm sóng nước trên đường làm ăn...
Ông kể, Hòa Hiệp Trung là vùng gió cát khắc nghiệt. Ngày trước, cuộc sống nghèo khó, thiếu thốn muôn bề. Hơn 10 tuổi, ông đã theo cha ra biển, chèo sõng, quăng lưới bắt cá. Làm biển không có máy điện đàm, định vị, dò cá như bây giờ mà chủ yếu dùng kinh nghiệm. Người đi biển cứ nhìn sao, nhìn trời, dõi theo hướng gió, kết hợp dùng 2 radio mở hai đài Bình Định và Khánh Hòa. Theo lời ông: “Ghe đang chạy trên biển mà nghe tiếng đài Bình Định rõ hơn là biết mình đang lệch về hướng Bắc. Ngược lại, nghe rõ đài Khánh Hòa là ghe xuống hướng Nam. Tiếng 2 radio cân bằng nhau là đang đi thẳng về nhà”. Rồi đến tuổi trưởng thành, ông cưới vợ, sinh con. 6 người con của ông, 4 trai, 2 gái, lớn lên đều theo nghiệp cha, bám bờ chân sóng, cật lực mưu sinh.
Năm 1990, thấy ngư dân các nơi bắt đầu có ghe thuyền lớn vươn khơi, ông mạnh dạn đóng mới chiếc thuyền công suất 45 mã lực và cùng với những người con trai, con rể mở rộng vùng đánh bắt. Những chuyến đi lộng với nghề lưới vây, lưới cảng đã giúp gia đình ông dần có của ăn, của để. Dùng khoản tiền tích góp, năm 1998, ông nâng cấp con tàu lên 155 mã lực, vài năm sau lại đóng mới chiếc tàu 160 mã lực, rồi tiếp theo là chiếc 450 mã lực, vươn khơi, bám biển dài ngày với nghề lưới rút nơi khơi xa.
Thương ông tuổi già khó nhọc, những người con xin thay cha cầm lái, để ông được ở nhà nghỉ ngơi. Song, chính bởi sự vững vàng trong nghề thuyền, mẫu mực trong lối sống, ông được bà con trong khu phố đề cử làm trưởng lạch. Rồi lần lượt, các chức trách: Chi hội trưởng Chi hội Nông dân khu phố Phú Thọ 1, Chủ tịch Nghiệp đoàn nghề cá thị trấn Hòa Hiệp Trung, Ủy viên Ủy ban MTTQ Việt Nam huyện Đông Hòa đến với ông, bởi sự tín nhiệm và nể trọng của mọi người. Vậy là, nghiệp biển vẫn chưa dứt, ông trở thành “chỉ huy trưởng” của làng biển, tiếp tục chỉ huy đội tàu gia đình và cánh ngư dân trẻ trên “trận địa” biển khơi.
Tạo sức bật cho làng cá
Ông Thu kể, cuối năm 2017, khi ông tiếp tục hạ thủy con tàu gỗ công suất 850 mã lực từ số vốn tích góp hơn chục tỷ đồng, không ít người ái ngại, lo ông thêm cực khổ. Nhiều người bảo, nếu lấy tất cả tiền đầu tư vào nghề biển đem gửi ngân hàng, mỗi tháng, ông có khoản lãi rút về dư ăn, dư để mà không phải thức khuya, dậy sớm, không phải ngược xuôi, nặng đầu tính toán.
Nghe vậy, ông chỉ cười khì, nói: “Cuộc đời tôi đã gắn với nghiệp biển, thân thể thấm vị mặn mòi của gió biển. Trong đầu tôi chỉ một ý nghĩ vươn khơi bám biển, đâu màng tới chuyện kinh doanh đất đai làm giàu”.
Từ khi dựng xỏ đóng chiếc tàu lớn này, ông như thỏa niềm đam mê khi được “chạm tay” tới các thiết bị, máy móc hàng hải trên con tàu khai thác hiện đại. Giờ đây, ngồi cùng với lớp ngư dân trẻ, ông cũng rành mạch, thông thạo không kém khi anh em bàn tới tính năng thiết bị này, máy móc kia. Chiếc máy dò cá hiện đại có thể xác định luồng cá cách vị trí tàu bao xa, trọng lượng đàn bao nhiêu tấn. Trong khi đó, máy định vị có thể xác định tàu chạy trong bao lâu tới được địa điểm định tới.
 
Tàu cá cập bờ, ngư dân làng biển Hòa Hiệp Trung tất bật đưa cá lên xe đông lạnh, bán cho thương lái. Ảnh: Phương Oanh
Ông Thu hạnh phúc bộc bạch, nghề cá của ngư dân Hòa Hiệp Trung đã có một bước tiến rất xa so với thời làm ăn đơn lẻ, mò mẫm. Hiện, làng biển này đã có hàng trăm chiếc tàu lớn, trong đó có gần 60 tàu công suất trên 400 mã lực. Đặc biệt, từ khi có Nghị định 67 của Chính phủ, ngư dân được khuyến khích đóng tàu lớn vươn ra biển xa. Nơi đây đã có 3 chiếc tàu vỏ thép công suất mỗi chiếc trên 1.000 mã lực được hạ thủy. 
Trên những con tàu công suất lớn, những anh em ngư dân trẻ kết nối thành tổ đội, cùng nhau xuất bến, vượt sóng, vượt gió ra khơi. Gặp đàn cá, họ mở máy đàm thoại, gọi nhau đến cùng bủa lưới. Những năm qua, nghề đánh bắt nhiều nơi vẫn khó khăn, nhưng nhiều chuyến tàu của ngư dân Hòa Hiệp Trung về bờ luôn rộn rã niềm vui, hầm tàu nào cũng chứa đến vài chục đến cả trăm tấn cá. Kết vụ năm 2018, Hòa Hiệp Trung có hàng chục chủ tàu có thu nhập từ 2 đến 6 tỷ đồng, mỗi thuyền viên được nhận từ 150 đến 300 triệu đồng.
Nhờ kết quả sản xuất đầy khởi sắc ấy, những mái nhà tranh, nhà đất thấp lè tè dưới tán phủ rừng dương đã lùi vào quá khứ. Thay vào đó là hàng trăm ngôi nhà tầng tươi sáng, hiện đại, những con đường bê tông khang trang, thoáng đãng. Cuộc sống mới đầy phấn khởi, đoàn kết đang hiện hữu trên mảnh đất này.
Ngư dân trẻ Nguyễn Văn Chúng, một trong những tỷ phú ở Hòa Hiệp Trung khẳng định, để có được ngày hôm nay, lớp trẻ trong làng không quên công ơn ông Thu. “Chúng tôi đến với nghề biển bằng tất cả lòng nhiệt huyết, khát khao thoát đói, vượt nghèo, nhưng cách làm ăn vụn vặt, manh mún mạnh ai nấy biết. Hồi đó, trong làng chỉ đánh bắt bằng xuồng, sõng, cao lắm chỉ là thuyền máy D, sáng ra biển, tối vô bờ với vài rổ cá nhỏ, đủ trang trải qua ngày. Chú Ba Thu là một trong những người đầu tiên có tàu công suất lớn. Thấy chiếc tàu cá của chú Ba đi biển vài ba bữa trở về là có mấy tạ cá, ai cũng mê. Rồi cũng chính chú là người tích cực khích lệ, giục ngư dân trẻ mạnh dạn đóng tàu lớn, đứng ra kết nối, hỗ trợ để mọi người tiếp cận nguồn vốn vay ưu đãi. Có chú Ba phía sau, ngư dân trẻ chúng tôi mạnh dạn bước tới để có ngày hôm nay” - Anh Chúng cảm kích kể.
Tâm sự chuyện nghề, ngư dân Nguyễn Văn Bế, ở khu phố Phú Thọ 1, thị trấn Hòa Hiệp Trung cho biết, cùng với phương tiện hiện đại, mấy năm qua, nghề cá của ngư dân Hòa Hiệp Trung thắng lớn là nhờ đi đánh bắt theo tổ đội. Những ai gắn bó với làng biển này cũng sẽ không quên hình ảnh ông Ba Thu ngược xuôi trên bờ, dưới cảng để lo toan hàng trăm chuyện lớn nhỏ. Từ theo dõi việc thực hiện các chính sách hỗ trợ cho ngư dân đến tham gia hòa giải những sự cố va chạm, mang lưới trên ngư trường, gọi đàm thoại ra biển xa báo tin gió bão, dặn dò ngư dân trẻ không vi phạm đánh bắt ở vùng biển nước ngoài, quyên góp ủng hộ cho các gia đình bị hoạn nạn...
Cuộc trò chuyện của chúng tôi gián đoạn nửa chừng, vì đến giờ ông hẹn nói chuyện với anh em ở biển. Ông Ba Thu bật công tắc chiếc máy Icom 710 đặt trên chiếc bàn rồi rà lại tần số. Đã có tín hiệu kết nối từ ngoài biển vọng về. Giây lát, có giọng một anh ngư dân nào đó vang lên: “Nghe rõ chưa chú Ba... Đêm qua, đàn 14 tụi con đánh được “trận lớn”. Trăng này, chiếc no nhất cỡ 3 tỷ, ít thì cũng khoảng 700 đến 800 triệu. Sáng nay, tàu hậu cần của Út Chí vừa thu xong cá, đang chạy về bờ. Tụi con đánh thêm vài bữa nữa, tới trăng thì cả đàn về”.
Hơn 10 năm trước, khi thấy ông Ba Thu cùng cán bộ Đồn Biên phòng Hòa Hiệp Nam đi vận động ngư dân trong làng vào tổ, đội tàu thuyền an toàn, tụi tôi nghĩ đó là cách dự phòng, khi có tai nạn bất trắc thì cứu giúp nhau. Vậy mà dần dần, với sự kết nối ấy, anh em trong tổ thương yêu, gắn bó, tin tưởng, sát cánh bên nhau, cùng làm ăn và chia sẻ ngọt bùi. Nhờ vậy mà việc làm ăn trên biển luôn gặp nhiều thuận lợi” - Anh Nguyễn Văn Bế thổ lộ.  
Phương Oanh (Biên Phòng)

Có thể bạn quan tâm

Sê San: Sông kể chuyện đời…

Sê San: Sông kể chuyện đời…

(GLO)- Dòng Sê San miệt mài chở nặng phù sa; sóng nước bồng bềnh không chỉ kể câu chuyện mưu sinh, bảo vệ phên giậu, mà còn gợi mở tương lai phát triển bền vững, góp phần khẳng định vị thế của vùng biên trong hành trình dựng xây quê hương, đất nước.

Chiếc nỏ của người lính trận Ia Drăng

Chiếc nỏ của người lính trận Ia Drăng

(GLO)- Mang ra chiếc nỏ được cất giữ hơn 30 năm, ông Siu Long (làng Gòong, xã Ia Púch, tỉnh Gia Lai)-nhân chứng trong trận đánh thung lũng Ia Drăng 60 năm trước chậm rãi nói: “Tôi muốn tặng món quà Tây Nguyên này cho một người bạn đến từ nước Mỹ”.

Ông Ksor Yung có lối sống trách nhiệm, gần gũi nên được mọi người quý mến. Ảnh: R’Ô Hok

Ksor Yung: Từ lối rẽ sai lầm đến con đường sáng

(GLO)- Từ một người từng lầm lỡ, ông Ksor Yung (SN 1967, ở xã Ia Rbol, tỉnh Gia Lai) đã nỗ lực vươn lên trở thành người có uy tín trong cộng đồng. Ông tích cực tham gia vận động, cảm hóa những người sa ngã, góp phần giữ gìn an ninh trật tự và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc.

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

(GLO)- Giữa bao thiếu thốn của vùng đất Pờ Tó, có một người thầy lặng lẽ, bền bỉ gieo yêu thương cho học trò nghèo. Thầy không chỉ dạy chữ mà còn khởi xướng nhiều mô hình sẻ chia đầy ý nghĩa như: “Tủ bánh mì 0 đồng”, “Mái ấm cho em”, “Trao sinh kế cho học trò nghèo”.

Trung tá Cao Tấn Vân (thứ 2 từ phải sang)-Phó Đội trưởng Phòng An ninh đối ngoại (Công an tỉnh Gia Lai) chụp ảnh cùng đồng đội. Ảnh: NVCC

Cống hiến thầm lặng vì sứ mệnh cao cả

(GLO)- Hành trình "gieo hạt" hòa bình bắt đầu từ những con người bình dị. Những cống hiến thầm lặng của họ vì sứ mệnh cao cả, góp phần tích cực đưa hình ảnh đất nước và con người Việt Nam yêu chuộng hòa bình đến bạn bè quốc tế.

Giới trẻ hào hứng tham gia các khóa học làm đèn lồng Trung thu thủ công

Hồi sinh Trung thu xưa

Giữa phố phường rực rỡ ánh đèn led, đèn ông sao và mặt nạ giấy bồi bất ngờ “tái xuất”, gợi lại ký ức những mùa trăng rằm xưa. Sự trở về của Trung thu truyền thống đã manh nha trong những năm gần đây, được nhiều người trẻ hào hứng đón nhận.

Gặp người lính Thành cổ năm xưa

Gặp người lính Thành cổ năm xưa

(GLO)- Trở về từ cuộc chiến khốc liệt ở Thành cổ Quảng Trị, cựu chiến binh Hồ Anh Hòa ít khi nhắc lại kỷ niệm chiến đấu với gia đình, con cháu. Bởi ông cho rằng, việc cầm súng lao vào cuộc chiến thời điểm ấy là trách nhiệm của một người con yêu Tổ quốc, “không nên công thần”.

Các cổ vật gốm sứ chén, bát, đĩa... được ngư dân nhặt được.

Làng cổ vật

Nép mình bên eo biển Vũng Tàu, thôn Châu Thuận Biển (xã Đông Sơn, huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi) không chỉ nổi tiếng là “làng lặn Hoàng Sa” với truyền thống bám biển, giữ chủ quyền, mà còn được ví như “kho báu” lưu giữ hàng loạt cổ vật từ những con tàu đắm hàng thế kỷ dưới đáy đại dương.

'Phu sâm' ở núi Ngọc Linh

'Phu sâm' ở núi Ngọc Linh

Nhiều doanh nghiệp và người dân lên ngọn núi Ngọc Linh hùng vĩ ở TP.Đà Nẵng thuê môi trường rừng để trồng sâm, mở ra một nghề mới để đồng bào Xê Đăng bản địa mưu sinh suốt nhiều năm qua: 'phu sâm', tức nghề cõng hàng thuê.

Thầy giáo làng đam mê sưu tầm đồ xưa cũ

Thầy giáo làng đam mê sưu tầm đồ xưa cũ

(GLO)- Không chỉ bền bỉ gieo con chữ cho học trò nghèo, thầy Võ Trí Hoàn-Hiệu trưởng Trường Tiểu học và THCS Quang Trung (xã Ia Tul, tỉnh Gia Lai) còn là người đam mê sưu tầm đồ xưa cũ. Với thầy, mỗi món đồ là bài học sống động về lịch sử dân tộc mà thầy muốn kể cho học trò.

Những cây đa trăm tuổi giữa đại ngàn Kon Ka Kinh

Những cây đa trăm tuổi giữa đại ngàn Kon Ka Kinh

(GLO)- Hàng trăm năm qua, những gốc đa lặng lẽ vươn mình trong rừng già Kon Ka Kinh, thấm đủ chuyện nhân sinh để hóa thành "chứng nhân" của đại ngàn. Quần thể đa cổ thụ không chỉ tạo nên cảnh quan kỳ vĩ, mà còn trở thành di sản tinh thần gắn bó với bao thế hệ cư dân sống dựa vào rừng.

Vào mùa xoay chín

Vào mùa xoay chín

(GLO)- Sau hơn 4 năm chắt chiu nhựa sống, hấp thụ tinh hoa đất trời, những cây xoay ở cánh rừng Kbang, Sơn Lang, Đak Rong đã bung hoa kết trái. Vào mùa xoay chín, người dân cũng đón “lộc rừng”, mang về nguồn thu nhập đáng kể.

Dệt những sợi kí ức giữa đại ngàn

Dệt những sợi kí ức giữa đại ngàn

Khi sản phẩm công nghiệp ngày càng tràn ngập thị trường thì ở vùng núi rừng Đưng K’nớ (xã Đam Rông 4, tỉnh Lâm Đồng) vẫn còn những người phụ nữ cần mẫn bên khung cửi, kiên nhẫn nhuộm từng sợi chỉ, dệt từng hoa văn. Những tấm thổ cẩm ra đời từ nơi đây là hơi thở níu giữ kí ức truyền thống đại ngàn.

null