Cuộc thi viết "Từ trong ký ức": Chiếc mo cơm và tình bạn thời khói lửa

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

"Trước đây nhà anh khá giả, vẫn đem mo cơm ở lại ăn trưa với tụi nhà nghèo như tôi thì tôi hiểu được cái tình của anh với bạn bè rồi" - Thiên nói và giúp tôi chuyển từ nghề chạy xe thồ sang làm giáo viên.



Những năm trước ngày đất nước thống nhất, vì là vùng bán sơn địa nên cả một vùng rộng lớn quê tôi (nay là huyện Hòa Vang, TP Đà Nẵng) chỉ có một trường trung học đệ nhất (tương đương cấp II) với cái tên là Trường Trung học Bán công Hiếu Đức. Lũ học sinh chúng tôi hầu hết đều lớn tuổi nhưng được cha mẹ khai sinh nhỏ lại vừa được đi học, vừa trốn đi lính cho chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Như tôi sinh năm 1953 nhưng được sửa lại 1956.

Mo cơm thuở học trò

Đi học với chúng tôi ngày ấy là cuộc trường chinh vì nhiều đứa ở rất xa trường. Hành trang đến trường là một túi xách khâu bằng bao bố, trong đó có một ít sách vở và một phần cơm để ăn trưa vì thời đó chúng tôi học 2 buổi, nếu về nhà thì không kịp quay lại trường.

Trong lớp ngày ấy tôi có hai người bạn thân là thằng Lục và thằng Thiên, cả hai đều mồ côi cha nên gia cảnh khá khó khăn (sau này mới biết cha của hai đứa tập kết ra Bắc). Nhà tôi tuy ở gần trường nhưng sáng nào đi học, tôi cũng nói với mẹ gói cơm để trưa ở lại ăn cùng với bạn cho vui. Phần cơm của Lục và Thiên gói trong một chiếc mo cau, trong đó một ít cơm độn thêm khoai sắn, thức ăn có khi là muối mè, có khi là ít cá kho khô. Mo cơm của tôi thường có cá kho, thịt kho, trứng,… vì nhà tôi khá giả hơn. Và chúng tôi thường mang cơm ra ăn chung với nhau. Ăn xong, ba đứa lăn ra trên bàn học nằm nghỉ và tâm sự với nhau về chiến tranh và mong ước đất nước sớm thanh bình.

Bạn tôi là Việt cộng

Năm 1968, vào một đêm khuya, súng nổ vang trời ở hướng nhà thằng Thiên và thằng Lục. Sáng hôm sau, đến lớp chỉ có thằng Lục mà không thấy thằng Thiên đâu. Thằng Lục nó nói nhỏ vào tai tôi là thằng Thiên nhảy núi rồi (đi theo Việt cộng).

Vào giờ ra chơi, có mấy người lính xông vào lớp. Một người ra dáng chỉ huy hỏi: "Thằng Thiên sáng nay có đi học không". Cả lớp im lặng. Thầy giáo trả lời: "Sáng nay chưa thấy em Thiên đi học". Tên chỉ huy lạnh lùng nói: "Em Thiên cái gì, nó là Việt cộng nòi đó, trong lớp này, nó chơi thân với đứa nào đứng lên coi".


 

 Minh họa: HOÀNG ĐẶNG
Minh họa: HOÀNG ĐẶNG



Cả lớp im phăng phắc, tôi lo sợ, hai tay nắm chặt mép bàn. Thấy không ai trả lời, tên chỉ huy gằn giọng: "Thằng Thiên theo Việt cộng nhảy núi rồi, học không học lo theo Việt cộng, tao bắt được là bắn bỏ" rồi quay sang bọn lính vẫy tay ra hiệu đi về. Khi chiếc xe chở đám lính vừa ra khỏi cổng trường, tôi thở phào nhẹ nhõm. Sau buổi học ấy, tôi giận Lục đến mấy ngày, trách nó tại sao bạn bè thân thiết mà giấu tôi chuyện thằng Thiên là Việt cộng và ba của 2 đứa cũng là Việt cộng.

Về sau Lục giải thích nó phải giữ bí mật của gia đình, nếu lộ ra thì cả nhà gặp chuyện và chuyện học hành của nó, Thiên cũng bị ảnh hưởng. Khi hiểu ra chuyện, tôi không còn trách Lục và càng quý nó hơn.

Cuộc viếng thăm giữa bom đạn

Từ ngày thằng Thiên nhảy núi, tôi và Lục vẫn tiếp tục đi học. Đêm 30-10-1969, ngoài trời mưa tầm tả, tôi học bài xong thì đã khuya, chuẩn bị đi ngủ, bỗng nghe pháo sáng từ xa tạch đùng bắn lên, chớp sáng cả trời đêm, liền sau đó là tiếng súng vang rền. Cả nhà tôi thức giấc nháo nhào bò xuống hầm tránh đạn.

Hầm tránh đạn của nhà tôi nằm bên chái bếp, có một khung ván nhỏ thông ra ngoài, đậy sơ sài bằng tấm ván được phủ lên một lớp vải dầu mỏng.

Cả nhà chui xuống hầm được một lát thì có tiếng cộc cộc gõ liên hồi vào miếng ván và tiếng gọi "Học ơi, Học ơi". Cả nhà ai cũng run cầm cập vì không biết ai gọi. Ba tôi ra dấu bảo cả nhà im, ông bò lại miệng giở miếng ván lên thì một bóng đen chui tọt vào, trên mình mang đầy súng đạn.

Dưới ánh đèn dầu hỏa tò mò, tôi nhận ra thằng Thiên. Nó ra dấu cho mọi người im lặng, đến gần tôi và nói đêm nay nó về đánh chi khu nhưng bị lộ, chúng bắn rát quá nên phải rút lui. Nó tranh thủ ghé qua thăm tôi vì lâu ngày không gặp nhớ bạn quá.

Nghe Thiên nói tôi rất cảm động vì nguy hiểm kề bên vẫn còn nhớ đến bạn bè. Lúc ấy sẵn mấy cái bánh bắc (loại bánh làm bằng bột nếp và đường bên ngoài là giấy gương nhỏ đủ màu) mẹ cúng đầu tháng, tôi dúi vào tay nó. Cầm mấy chiếc bánh tôi đưa, nó lí nhí cảm ơn rồi bò lên miệng hầm. Ngoài kia, tiếng súng máy vẫn bắn liên hồi…

Đâu dễ phôi pha

Kể từ hôm thằng Thiên nghỉ học, tôi và Lục vẫn đi học bình thường nhưng nó có hơi khang khác. Thấy vậy, tôi hỏi nó có chuyện gì nhưng nó làm thinh. Tôi biết nó đang có điều gì đó nhưng không tiện nói nên không hỏi nữa. Dù vậy, trong lòng tôi cảm phục vô cùng vì mình có những người bạn dũng cảm, có chí khí.

Những buổi trưa ở lại trường, chỉ còn tôi và Lục ăn cơm với nhau. Bữa cơm từ bộ ba giờ chỉ còn 2 cũng có phần kém ngon. Đôi khi hai đứa bất giác thẫn thờ thở dài vì nhớ Thiên.

Mùa hè năm 1969 cũng là năm cuối cấp, tôi và Lục tiếp tục xuống Đà Nẵng để học tiếp lên cấp III. Chúng tôi tiếp tục chung trường, chung lớp.

Hồi đó, Lục rất thường xuyên về quê và mỗi lần trở lại trường nó lại có vẻ trầm ngâm hơn trước. Có lần nó không về quê mà nghỉ học liền 2-3 ngày. Tôi hỏi, nó bảo tôi cứ lo học, nó làm chuyện gì rồi có ngày, tôi sẽ biết. Nghe Lục nói vậy, tôi linh tính nó đang làm việc gì đó cho Việt cộng rồi, nên không hỏi nữa.

Đầu năm 1970, một lần về quê, thằng Lục kể nghe nói thằng Thiên bị máy bay Mỹ bắn và hy sinh trên đường ra miền Bắc rồi. Tôi bàng hoàng đau xót!

Sau ngày miền Nam giải phóng, thằng Lục về quê, xuất hiện ở Ủy ban Quân quản xã Hòa Nhơn, huyện Hòa Vang, với cái túi xách bên mình cùng khẩu súng nhỏ. Nó trở thành cán bộ của chính quyền cách mạng còn tôi không có việc làm nên làm nghề chạy xe thồ ở bến xe liên tỉnh Đà Nẵng.

Trưa hôm ấy, trong khi chờ khách ở bến xe, tình cờ và quá đỗi bất ngờ, tôi gặp được Thiên. Hai đứa nhận ra nhau, thằng Thiên không chết, nó kể được đồng đội cứu sống rồi tiếp tục học tập ở miền Bắc và mới được điều về quản lý bến xe.

Sau phút giây hội ngộ mừng ra nước mắt ấy, Thiên bảo: "Người anh ốm yếu, đi xe thồ làm chi, nộp đơn xin học sư phạm cấp tốc 4 tháng ra đi dạy".

Tôi băn khoăn khi mình mới lấy vợ, sinh con, đi học thì gạo đâu mà nuôi vợ con trong 4 tháng đó. Thiên quả quyết nói tôi cứ đi học, chuyện gạo cơm của vợ con tôi để nó lo. "Trước đây nhà anh khá giả, vẫn đem mo cơm ở lại ăn trưa với tụi nhà nghèo như tôi thì tôi hiểu được cái tình của anh với bạn bè rồi. Bây giờ tôi giúp lại anh". Thế là nhờ sự giúp đỡ của Thiên, tôi trở thành giáo viên cấp II.

Năm 1979, cuộc chiến biên giới phía Bắc nổ ra, Thiên tình nguyện lên đường chiến đấu. Quyết định của nó rất bất ngờ và dứt khoát, tôi và Lục không thể can ngăn. Và đau đớn thay, cũng trong năm ấy, nó đã nằm xuống trên biên cương phía Bắc sau một trận đánh ác liệt. Được tin, tôi và Lục vô cùng đau đớn và tiếc thương. Đây là lần chia tay vĩnh viễn với Thiên - người bạn anh dũng, chí tình của Lục và tôi.

Giờ đây, tôi và Lục đã nghỉ hưu, thỉnh thoảng chúng tôi cùng về thăm quê, ghé lại thắp cho thằng Thiên mấy nén nhang. Những lúc ấy, tôi vẫn còn mường tượng được khuôn mặt cương nghị của bạn mình. Mỗi lần như thế, tôi lại nhớ đến những bữa cơm trưa đạm bạc dưới mái trường xưa. Thương làm sao chiếc mo cơm thời khói lửa!


 

 



Theo NGUYỄN VĂN HỌC (NLĐO)

Có thể bạn quan tâm

Du hành với “Pleiku xưa và nay”

Du hành với “Pleiku xưa và nay”

(GLO)- Phố núi Pleiku (tỉnh Gia Lai) hơn nửa thế kỷ trước có gì thú vị? Triển lãm ảnh “Ký ức Pleiku” diễn ra tại Bảo tàng tỉnh từ ngày 24-1 đến 21-2 đưa người xem bước vào chuyến du hành trở về Pleiku xưa, thêm cơ sở so sánh với sự phát triển không ngừng của đô thị trung tâm khu vực Bắc Tây Nguyên.

Cỏ xanh về phía cũ

Cỏ xanh về phía cũ

(GLO)- Bài thơ “Cỏ xanh về phía cũ” của Vân Phi như một bức tranh ký ức trầm lắng về mái ấm gia đình, nơi thời gian dường như lặng lẽ quay trở lại qua những hình ảnh quen thuộc, giản dị thấm đượm tình cảm và ký ức sâu sắc khiến người ta thổn thức.

Người gùi hơ’mon về đâu

Người gùi hơ’mon về đâu

(GLO)- Bài thơ Người gùi hơ’mon về đâu của Vân Phi mở ra không gian đẫm hơi men rượu cần, tiếng hát lẫn trong gió khuya và những ký ức chảy trôi theo thời gian, mơ hồ giữa hiện thực và quá khứ. Tất cả như gợi lên sự tiếc nuối, khắc khoải về một giá trị của truyền thống đang dần phai nhạt.

Nhịp xoang

Nhịp xoang

(GLO)- Bài thơ "Nhịp xoang" của Nguyễn Đình Phê mang đậm hơi thở văn hóa Tây Nguyên, tái hiện không khí lễ hội cồng chiêng rộn ràng, nơi con người hòa cùng thiên nhiên và thần linh. Bài thơ không chỉ ca ngợi vẻ đẹp văn hóa mà còn truyền tải tinh thần đoàn kết, gắn bó bền chặt.

Thơ Sơn Trần: Lời hẹn

Thơ Sơn Trần: Lời hẹn

(GLO)- Bài thơ "Lời hẹn" của Sơn Trần không chỉ mô tả vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn là những hẹn ước, kỳ vọng về sự trở về, đoàn tụ, gắn kết. Hình ảnh trong thơ vừa thực tế, vừa thi vị, mang đến cho người đọc cảm nhận ấm áp về tình yêu quê hương, về sự đổi thay tươi đẹp của đất trời vào xuân.

Thơ Vân Phi: Xuân dậy thì

Thơ Vân Phi: Xuân dậy thì

(GLO)- "Xuân dậy thì" của tác giả Vân Phi mang đến những xúc cảm thanh tân về mùa xuân và tình yêu, đưa chúng ta vào không gian tràn đầy sức sống của một buổi sáng quê hương. Mùa xuân được nhen lên trên từng chồi non lộc biếc, và mùa xuân cũng bắt đầu khi tình yêu có những hồi đáp ngọt ngào...

Nụ cười Tây Nguyên

Nụ cười Tây Nguyên

(GLO)- Đi tìm nụ cười Tây Nguyên chính là tìm đến cái đẹp nguyên sơ. Nó ẩn sâu trong đôi mắt, nó hé nhìn qua đôi tay trong vũ điệu, nó giấu mình sau chiếc gùi đầy ắp lúa, bắp và nó cũng chân tình, e ấp khi nói lời thương. Nụ cười ấy hồn hậu, sâu lắng và tự nhiên như núi rừng, sông suối.

Thơ Nguyễn Thanh Mừng: Khảo cổ An Khê

Thơ Nguyễn Thanh Mừng: Khảo cổ An Khê

(GLO)- Bài thơ "Khảo cổ An Khê" như một cách "phượt" về quá khứ, về những dấu tích cổ xưa của Nguyễn Thanh Mừng. Để rồi, ở đó, tác giả lại tự "khảo cổ chính mình", khát khao tìm lại những giá trị thuần khiết, giản dị của con người và văn hóa dân tộc.

Thơ Nguyễn Đức Nam: Đừng buồn nhé, em!

Thơ Nguyễn Đức Nam: Đừng buồn nhé, em!

(GLO)- Bài thơ “Đừng buồn nhé, em!” của Nguyễn Đức Nam phản ánh một thông điệp sâu sắc về thời gian, sự thay đổi và sự chấp nhận trong cuộc sống. Tác giả dùng hình ảnh dòng sông để minh họa cho những chu kỳ trong đời người và những thăng trầm mà mỗi người phải trải qua.

Thơ Lê Vi Thủy: Mùa em

Thơ Lê Vi Thủy: Mùa em

(GLO)- Mùa xuân không chỉ đơn thuần là thời gian mà còn là biểu tượng của sự tái sinh, của tình yêu thương, sự đoàn tụ và những ước nguyện hạnh phúc. Đó cũng chính là thông điệp mà tác giả Lê Vi Thủy gửi gắm đầy nhẹ nhàng, tinh tế trong bài thơ "Mùa em". Mời các bạn cùng đọc.

Thơ Nguyễn Ngọc Hưng: Gọi xuân

Thơ Nguyễn Ngọc Hưng: Gọi xuân

(GLO)- Bài thơ "Gọi xuân" của tác giả Nguyễn Ngọc Hưng mang đậm không khí của mùa đông, song cũng là lời mời gọi, khắc khoải của mùa xuân. Từng câu thơ như một niềm khát khao về sự thay đổi, hồi sinh và tươi mới...

Thơ Lữ Hồng: Suốt mùa tuổi ngọc

Thơ Lữ Hồng: Suốt mùa tuổi ngọc

(GLO)- Mùa xuân vừa đến, cho ta cái cớ để nhìn lại chặng đường dài mình đã đi qua. Thêm một tuổi là thêm nhiều những hạnh ngộ và chia ly, nguyện ước và mong chờ. Nhưng chừng nào còn tha thiết với đời là ta còn “tuổi ngọc”. Bài thơ của tác giả Lữ Hồng dưới đây như thay lời muốn nói...

Thơ Nguyễn Ngọc Hạnh: Quê ngoại

Thơ Nguyễn Ngọc Hạnh: Quê ngoại

(GLO)- Bài thơ "Quê ngoại" của Nguyễn Ngọc Hạnh không chỉ là lời tỏ bày tình cảm quê hương mà còn là một thông điệp sâu sắc về sự gắn bó với cội nguồn. Quê hương dù có xa hay gần, luôn là một phần không thể thiếu trong cuộc đời mỗi người, là điểm tựa để chúng ta tìm về trong những lúc lạc lõng nhất.

Thơ Lê Từ Hiển: Hoa vô thường

Thơ Lê Từ Hiển: Hoa vô thường

(GLO)- "Hoa vô thường" của Lê Từ Hiển mang đậm dấu ấn của sự chiêm nghiệm về cuộc đời, sự vô thường của thời gian qua những biến chuyển của thiên nhiên. Mỗi câu thơ như một khoảnh khắc dịu dàng, mà ở đó, tác giả lặng lẽ nhìn nhận và đón nhận mọi biến động của đời sống...

Thơ Nguyễn Ngọc Hạnh: Giếng xưa

Thơ Nguyễn Ngọc Hạnh: Giếng xưa

(GLO)- Với "Giếng xưa", tác giả Nguyễn Ngọc Hạnh đã khắc họa bức tranh đầy khắc khoải, suy tư về cuộc đời. Khi thời gian lặng lẽ trôi qua, mỗi hình ảnh đều như một lời tâm sự rất riêng tư nhưng cũng thật gần gũi và đầy cảm xúc.

Cuộc thi viết “Pleiku - Khát vọng vươn lên” năm 2025 nhận tác phẩm từ ngày 20-1

Cuộc thi viết “Pleiku - Khát vọng vươn lên” năm 2025 nhận tác phẩm từ ngày 20-1

(GLO)- Nhằm tiếp tục phát huy hiệu quả công tác tuyên truyền, quảng bá hình ảnh, con người phố núi Pleiku, UBND thành phố phối hợp với Báo Gia Lai tổ chức Cuộc thi viết về chủ đề “Pleiku-Khát vọng vươn lên” năm 2025 trên các ấn phẩm của Báo Gia Lai. Ban tổ chức bắt đầu nhận bài từ ngày 20-1.