Chung dãy Trường Sơn

Theo dõi Báo Gia Lai trênGoogle News
Một dãy núi mà hai màu mây/Nơi nắng nơi mưa, khí trời cũng khác... Thơ của Phạm Tiến Duật cứ hiện lên trong tâm trí tôi trên cung đường khúc khuỷu dọc ngang miền biên giới Quảng Trị. Những ngôi nhà sàn lênh khênh, xiêu vẹo của người Pa Cô, Vân Kiều được điểm tô bởi sắc thắm của cờ đỏ sao vàng, hòa lẫn màu xanh của đại ngàn Trường Sơn lúc ẩn, lúc hiện.
Trưởng thôn Hồ Văn Kịa (thôn A Dơi Đớ, xã A Dơi, huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị) vui mừng gặp lại những bộ đội biên phòng đã cất công đi xác minh làm thủ tục nhập tịch cho gia đình ông

Trưởng thôn Hồ Văn Kịa (thôn A Dơi Đớ, xã A Dơi, huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị) vui mừng gặp lại những bộ đội biên phòng đã cất công đi xác minh làm thủ tục nhập tịch cho gia đình ông

Một dải rừng liền

Gió Lào trắng xóa thì cứ miệt mài nhuộm da đồng bào thành màu nâu của đất. Bức tranh biên giới vẽ ra sự kỳ vĩ vốn có, nhưng cũng cho người ta ấn tượng thật khắc nghiệt. Chốc chốc, chiếc xe bán tải lại chồm lên những rãnh đường đất khiến bụi bay mù mịt.

Trên đường vào thôn A Dơi Đớ (xã A Dơi, huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị), Trung tá Trần Bình Quy, Đồn trưởng Đồn Biên phòng Ba Tầng, Bộ đội Biên phòng Quảng Trị bồi hồi kể lại cho tôi nghe câu chuyện của vùng đất này hơn 20 năm trước. Hồi đó, có cộng đồng người Pa Cô, Vân Kiều sinh sống rải rác ở dọc tuyến biên giới giáp với nước bạn Lào với tên gọi “bản xâm cư”. Họ không có quốc tịch, không có hộ khẩu nên không có quyền công dân. Vợ chồng không có giấy đăng ký kết hôn, trẻ con không có giấy khai sinh, người già không được khám chữa bệnh. Cuộc sống của họ là những vòng lặp của những đói nghèo, du canh du cư, đốt nương làm rẫy, phó mặc số mệnh cho Giàng.

“Thế nhưng tại sao họ lại không có quốc tịch?”. Giải đáp thắc mắc của tôi, Trung tá Quy chậm rãi: “Trước đây, bà con đã sống ở bản này nhiều đời, nhưng do chiến tranh, để tránh bom đạn, họ đã lùi sâu vào rừng. Khu vực đó sau khi hoạch định biên giới thuộc phần lãnh thổ của nước bạn Lào, vì thế cả bản trở thành công dân Lào. Ở trên đất Lào, nhưng nương rẫy, mồ mả tổ tiên của họ chủ yếu nằm trên phần đất Việt Nam, nên từ năm 1995 đến năm 2000, họ lần lượt tìm về quê cha đất tổ, chấp nhận làm người “không quốc tịch”. Mặc dù chính quyền địa phương, bộ đội biên phòng và công an thường xuyên vận động bà con quay lại sinh sống trên đất bạn Lào, nhưng bà con quyết xin ở lại, với lý do rằng: “bầu trời thì to nhưng Giàng chỉ ở một chỗ, tổ tiên ở đâu thì phải cúng Giàng ở đó.”

“Không quốc tịch”, chỉ ba từ đó thôi cũng đã chất chứa đủ mọi thiệt thòi. Thấy tôi trầm tư, Trung tá Quy cười lớn: “Đó là chuyện của trước đây thôi chị ạ. Bây giờ bà con có quốc tịch hết rồi!”. Thấy tôi còn chưa hết ngạc nhiên, anh tiếp: “Nhận thấy di cư tự do tiềm ẩn nhiều nguy cơ tác động tiêu cực đến tình hình an ninh chính trị, ảnh hưởng đến công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội ở khu vực biên giới nói riêng và công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc của hai nước Việt Nam - Lào nói chung; đồng thời, tăng cường, củng cố mối quan hệ hữu nghị truyền thống, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện giữa hai nước; tạo điều kiện thuận lợi cho người dân trong diện di cư ổn định cuộc sống, đến năm 2020, về cơ bản bà con di cư tự do từ những năm 1990 trở về trước trong vùng biên giới giữa hai nước của thuộc ba tỉnh Quảng Trị, Savanakhet, Salavan đều đã được nhập quốc tịch hết”.

Xe dừng lại ở đầu bản. Chúng tôi cùng nhau cuốc bộ tới nhà Trưởng thôn Hồ Văn Kịa, người đứng đầu “bản xâm cư” năm nào. Gặp bộ đội biên phòng, ông Kịa vui mừng và phấn khởi ra mặt, bởi chính các anh là lực lượng đã cất công đi xác minh và tìm lại các giấy tờ để làm thủ tục nhập tịch cho gia đình ông. Sau chén rượu đượm mùi men lá để tạ phong tục, ông Kịa khoe với chúng tôi thẻ căn cước công dân mới nhận và thẻ bảo hiểm y tế. Ánh mắt ông lấp lánh: “Hơn 20 năm là tính từ khi có “bản xâm cư”, chứ còn tên gọi “người không quốc tịch” thì bố mang theo gần cả kiếp người rồi. Qua ô cửa sổ nhà ông Kịa, tôi thấy dăm chục em bé đang thập thò, len lén nhìn người lạ, rồi cười e thẹn và bỏ chạy khi thấy tôi vẫy lại gần cho kẹo.

Ở A Dơi gần một tuần, theo chân bộ đội biên phòng đi khắp các thôn bản, tôi nhận thấy A Dơi nghèo khổ quá. Là xã biên giới, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số của tỉnh Quảng Trị, toàn xã có 6 thôn thì cả 6 thôn đều thuộc diện đặc biệt khó khăn, trên 46% dân số thuộc diện hộ nghèo. Cái nghèo, cái đói đeo đẳng sinh ra bệnh tật, sinh ra những hủ tục rườm rà. Thế nên, mặc dù đã nhập quốc tịch cho bà con, bộ đội biên phòng vẫn thường xuyên phải bám địa bàn, đến thăm hỏi, vận động bà con từ bỏ hủ tục, tiếp cận những tri thức khoa học, nắm được quyền lợi và nghĩa vụ của mình. Làm thế nào để những xã vùng biên như A Dơi bớt khổ, làm thế nào để toàn tuyến biên giới Việt - Lào giữa tỉnh Quảng Trị và hai tỉnh Salavan, Savanakhet bớt nghèo, đó là nỗi niềm trăn trở chung của những nhà hoạch định chính sách và là nỗi niềm riêng đau đáu của Bộ đội Biên phòng Quảng Trị.

Hai dải đất, một tấm lòng

Tuổi thơ của những người con vùng biên Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị nếu đã tắm trên dòng Sê Pôn thì đều biết đó là ranh giới tự nhiên giữa hai đất nước. Thế nhưng, tuyệt nhiên không một đứa trẻ nào biết được, con sóng nào của Lào, con sóng nào của Việt Nam. Và, tình cảm giữa hai dân tộc Việt - Lào cũng như sóng kia, được nuôi dưỡng từ một dòng sông mẹ.

Ở Trạm kiểm soát biên phòng xã Xy, tôi gặp Trưởng thôn Bun-Thẳn Xẻng-Sụ-Păn Thanh của bản Ổi (huyện Mường Nòong, tỉnh Savanakhet) đi đò qua sông Sê Pôn để sang bản Xi-Ra-Man, xã Xy, huyện Hướng Hóa họp giao ban kết nghĩa bản - bản định kỳ hàng quý. Trưởng thôn Thanh vui vẻ: “Tôi mang quốc tịch Lào nhưng anh em thì ở bên Việt Nam này hết. Quý trước hội nghị giao ban bản - bản tổ chức ở bên Lào rồi nên quý này tổ chức ở Việt Nam. Chúng tôi họp để cùng trao đổi thông tin và tháo gỡ, giải quyết các vấn đề về tình hình an ninh trật tự rồi cùng nhau phát triển kinh tế của hai bên.”

Vậy là, nhận thấy bà con dù sinh sống hai bên biên giới, nhưng cùng uống chung nước dòng Sê Pôn, cùng đồng điệu về văn hóa, phong tục tập quán, thế nên Bộ đội Biên phòng Quảng Trị đã xây dựng chủ trương và nhân rộng mô hình “Xây dựng và nhân rộng kết nghĩa dân cư, phát triển bền vững tại các bản đối diện hai bên biên giới giữa tỉnh Quảng Trị, Việt Nam với hai tỉnh Salavan và Savannakhet, Lào”, gọi tắt là mô hình kết nghĩa bản - bản. Mục đích của mô hình này là để các cặp bản kết nghĩa hỗ trợ, giúp đỡ nhau cùng phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, tạo điều kiện thuận lợi cho nhau trao đổi hàng hóa, qua lại khám chữa bệnh, thăm thân, đồng thời cùng nhau giữ gìn an ninh trật tự, bảo vệ đường biên, mốc giới.

Tôi theo chân Đội vận động quần chúng Đồn biên phòng Thanh để tận mắt thấy sự đổi thay trong cuộc sống của bà con kể từ khi có hoạt động kết nghĩa bản - bản. Dọc hai bên vành đai biên giới là bạt ngàn những vạt chuối xanh mướt mát. Hỏi ra mới biết, gần đây, cây chuối đã trở thành loại cây chủ lực trong phát triển kinh tế địa phương. Nhiều năm trước, bà con ở khu vực biên giới Việt Nam thiếu đất để mở rộng canh tác cây chuối, trong khi đó, diện tích đất đai của nước bạn Lào lại bỏ hoang hóa, hoặc sản xuất không hiệu quả. Thông qua sự kết nối giữa những già làng uy tín, dưới sự quản lý của chính quyền địa phương 2 nước, nhiều người dân các xã biên giới Việt Nam đã sang hợp tác với người dân nước bạn Lào để thuê đất trồng chuối. Ngược lại, bà con bên bạn cũng sang Việt Nam để mượn nương trồng sắn. Cây sắn của bạn mọc khắp các triền đồi, nương rẫy là nguyên liệu nhập về xuôi cho các nhà máy chế biến tinh bột sắn. Kinh tế vùng biên đang thay da đổi thịt từng ngày.

Tiếp nhận, yên tâm, tin tưởng vào chính sách mới của Đảng, Nhà nước, đồng bào Pa Cô, Vân Kiều sau những bỡ ngỡ ban đầu đã dần hòa nhập và an cư lạc nghiệp. Các tổ chức đảng, chính quyền, mặt trận và các đoàn thể quần chúng được củng cố, kiện toàn và đi vào hoạt động có hiệu quả, bà con tích cực tham gia phong trào tố giác tội phạm, cùng với lực lượng chuyên trách của mỗi bên tuần tra bảo vệ đường biên, mốc giới.

Trên đường về đơn vị, tôi thấy đội múa cồng chiêng của xã Xy đang tập tiết mục mới ở khoảng sân trước nhà văn hóa cộng đồng. Bà con rạng rỡ trong những bộ trang phục truyền thống cầu kỳ. Văn hóa cồng chiêng từ ngàn đời của tổ tiên người Pa Cô, Vân Kiều đang được khôi phục và truyền giữ, kiêu hãnh ngân vang giữa đại ngàn Trường Sơn với khát vọng no ấm, đủ đầy trên dải biên cương hòa bình, thịnh vượng.

Đại tá Ngô Xuân Thường, Phó Chính ủy Bộ đội Biên phòng tỉnh Quảng Trị, cho hay: “Hiện nay trên toàn tuyến biên giới Quảng Trị đã có 24/24 cặp bản tổ chức kết nghĩa. Việc kết nghĩa đó tiếp tục làm khăng khít hơn nữa mối quan hệ đoàn kết đặc biệt Việt - Lào trên thực tế, sự giúp đỡ lẫn nhau trong sinh hoạt, trong cuộc sống tiếp tục được tăng cường và tình cảm gắn bó dân tộc giữa hai bên tiếp tục không ngừng được củng cố”.

Có thể bạn quan tâm

Hun hút giữa mây ngàn

Hun hút giữa mây ngàn

Bám trường lớp ở những nóc heo hút, nhiều thầy cô giáo gần như gởi cả thanh xuân theo cuộc hành trình. Đầu tuần, những người trẻ lầm lụi ôm ba lô ngược núi. Họ như mất hút cho tới cuối tuần, mới có thể ra nơi có sóng điện thoại.

Vừa học vừa run trong ngôi trường chờ… sập

Vừa học vừa run trong ngôi trường chờ… sập

Sau gần 30 năm đưa vào sử dụng, điểm trường Phú Quý thuộc Trường Tiểu học số 2 Bình Châu (xã Bình Châu, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi) hiện xuống cấp nghiêm trọng, tường bong tróc, nứt toác… chờ sập. Hàng trăm học sinh và giáo viên thấp thỏm, lo âu vừa học vừa run.

Những tiến sĩ trẻ và khát vọng đổi thay - Bài 4: Xây dựng cộng đồng nhà khoa học trẻ tài năng

Những tiến sĩ trẻ và khát vọng đổi thay - Bài 4: Xây dựng cộng đồng nhà khoa học trẻ tài năng

Dành trọn đam mê trong phòng thí nghiệm, chắt chiu trong từng thí nghiệm, TS. Phạm Thanh Tuấn Anh, SN 1992, Phó trưởng phòng Phòng thí nghiệm Vật liệu Kỹ thuật cao, Trường ĐH Khoa học tự nhiên (ĐHQG HCM), đã gặt hái nhiều thành tựu trong lĩnh vực công nghệ vật liệu mới.