(GLO)- Những ngày qua, giữa rất nhiều hoạt động chào mừng ngày đất nước thống nhất, tiếng cồng chiêng, tiếng đàn trưng… vang lên từ Hội thi văn hóa-thể thao các dân tộc thiểu số toàn tỉnh lần thứ III-2019 tổ chức tại Quảng trường Đại Đoàn Kết (TP. Pleiku) có một sức hút rất riêng. Trong rất nhiều lý do để di sản văn hóa các dân tộc được bảo tồn, được chảy trong dòng chảy văn hóa của chính đồng bào, tôi quan tâm đến yếu tố nhận thức nói chung, quan niệm nói riêng của các chủ nhân đối với di sản văn hóa của cha ông. Bởi, đó chính là yếu tố có tính quyết định đến kết quả của việc bảo tồn, phát huy và quảng bá di sản.
Mai một…
Hơn 100 năm qua, vùng đất Gia Lai nói chung, văn hóa các dân tộc thiểu số nói riêng đã chịu ảnh hưởng của nhiều thể chế chính trị. Chính sách đối với văn hóa trong từng giai đoạn lịch sử đã tác động trực tiếp đến nhận thức của các dân tộc về văn hóa của dân tộc mình. Nếu như trong thời Pháp thuộc, văn hóa của các dân tộc tại chỗ ở Tây Nguyên bị người Pháp và các viên quan phong kiến coi là lạc hậu thì đến thời Ngô Đình Diệm (1954-1963), ngụy quyền Sài Gòn cũng đề ra hàng loạt giải pháp nhằm đồng hóa các dân tộc thiểu số với văn hóa Việt, trong đó có việc khuyến khích bãi bỏ các tập tục truyền thống. Bên cạnh những biện pháp chung, các cấp chính quyền ở địa phương còn tự đặt ra những lệ riêng. Ví dụ: Ở Đak Lak, người Ê Đê muốn vào thành phố phải mặc quần dài, áo sơ mi; còn ở Pleiku, người Jrai phải cất nhà trên nền đất như người Việt...
Hệ quả của các chính sách trên cùng những điều mắt thấy, tai nghe đã làm cho đồng bào các dân tộc Tây Nguyên bị ám ảnh rằng, phong tục, tập quán nói riêng, văn hóa cổ truyền nói chung của dân tộc mình là... lạc hậu. Tư tưởng này dần làm cho giới trẻ chỉ quan tâm đến việc học theo, bắt chước những gì mà họ cho là thuộc về xã hội văn minh và từ chối văn hóa truyền thống của ông cha.
|
Các nghệ nhân trình diễn nhạc cụ tại Hội thi Văn hóa-Thể thao các dân tộc thiểu số toàn tỉnh lần thứ III-2019. Ảnh: Đ.T |
Chúng ta cùng nhìn lại, trước khi không gian văn hóa cồng chiêng được UNESCO vinh danh (ngày 25-11-2005), những người quan tâm đến văn hóa Tây Nguyên đều dễ dàng nhận thấy nguy cơ mai một của di sản qua sự suy giảm nhanh chóng của số lượng cồng chiêng ở các tỉnh Tây Nguyên. Đó là lý do mà những năm 1980, “chảy máu cồng chiêng” trở thành cụm từ phổ biến nhất khi bàn về các giá trị văn hóa Tây Nguyên. Ở các buôn làng trên cao nguyên, mùa lễ hội tháng 3 dường như cũng “nhạt” đi khi cây cao su, cà phê ngày càng lấn át không gian của Yang Hri (thần Lúa); những chiếc giếng khoan thay dần những “giọt nước” (bến nước) tưởng sẽ trường tồn với các buôn làng...
Đầu tháng 4 vừa qua, trong chuyến khảo sát các làng Bahnar ở phía Đông Nam tỉnh, thấy tôi say sưa chụp chụp, đo đo những ngôi nhà mồ, tượng mồ truyền thống thì một thanh niên đã nói với tôi: “Ôi, nhà mồ làng mình không đẹp đâu, chị sang làng Bi Yông ấy, nhà mồ ở bên đó mới đẹp”. Khi sang đến nơi thì tôi đã hiểu, quan niệm của các bạn trẻ trong vùng hiện nay về một ngôi nhà mồ đẹp phải là: những ngôi mộ được chụp lên bằng những cái nắp bê tông ốp gạch màu, như những ngôi mộ của người Kinh trong vùng, thay cho những mái đan bằng tre nứa sặc sỡ sắc màu; những cột thiêng, tượng nhà mồ… Điều này làm tôi giật mình lo ngại. Chỉ ít năm nữa thôi, nếu quan niệm của bạn trẻ trên là phổ biến thì khi quay lại đây, lúc điều kiện kinh tế của bà con khá lên, dân làng này cũng sẽ thuê các thợ hồ người Kinh làm cho những ngôi mộ bê tông ốp gạch, lô nhô giữa một vùng chói nắng.
…Và hồi sinh
Kinh nghiệm từ các hoạt động bảo tồn di sản văn hóa cồng chiêng cho thấy, sau gần 15 năm được UNESCO ghi vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, di sản văn hóa cồng chiêng đã “hồi sinh”. Ngày nay, đến buôn làng nào ở Gia Lai, nếu yêu cầu được xem trình diễn cồng chiêng, du khách cũng sẽ được đáp ứng; cồng chiêng hiện không chỉ thân thuộc với người già, mà nhiều thanh-thiếu niên Jrai, Bahnar cũng rất hứng thú với nó. Trong các liên hoan, hội thi, ta không khó để bắt gặp những đội chiêng nhí. Ở đó, có những bé trai 5-7 tuổi say sưa đánh cồng chiêng, hóa thân vào các nhân vật hóa trang, những bé gái cùng trang lứa uyển chuyển trong vòng xoang… với vẻ tự hào hiện rõ trên nét mặt. Số lượng cồng chiêng chẳng những không còn giảm nhanh như những thập niên trước, mà tăng từ con số 5.117 bộ (năm 2004) lên 5.655 bộ (năm 2008).
|
Ông Rơ Lan Hieo-phụ tá Vua Lửa đời thứ 14 (bìa phải)-thực hiện nghi lễ cúng cầu mưa của Yang Pơtao Apuih. Nghi lễ này đã được Bộ Văn hóa-Thể thao và Du lịch công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia. Ảnh: Đ.T |
Những điều đó không tự nhiên đến, mà là kết quả chuyển biến trong hàng chục năm qua, từ sự bền bỉ của các nhà hoạt động văn hóa, các cấp chính quyền, các đoàn thể với những hoạt động như: khôi phục các lễ hội truyền thống, khôi phục các đội cồng chiêng ở chính cộng đồng, tổ chức các hoạt động giao lưu, liên hoan từ xã, huyện, tỉnh đến festival cồng chiêng khu vực, quốc tế. Nhiều đội cồng chiêng Tây Nguyên đã “mang chuông đi đánh nước người” làm cho tiếng chiêng Tây Nguyên vang lên tận đất Mỹ, đất Hàn… Việc cồng chiêng Tây Nguyên được thế giới trầm trồ, các kênh truyền thông liên tục quan tâm… đã đem lại nhận thức mới về di sản cho chính các chủ nhân, đặc biệt là làm thay đổi nhận thức trong lớp trẻ, làm cho họ biết yêu, biết trân trọng những tài sản vật chất và tinh thần vô giá từ các thế hệ đi trước trao truyền.
Lịch sử và thực tiễn trong những năm qua trên chính vùng đất này đã minh chứng: Khi lòng tự hào dân tộc được khơi nguồn, tình yêu với văn hóa dân tộc được nuôi dưỡng thường xuyên, những nhận thức lệch lạc về giá trị văn hóa được quan tâm uốn nắn… sẽ giúp đồng bào các dân tộc nói chung, lớp trẻ người dân tộc thiểu số nói riêng biết tự hào về di sản của ông cha. Đó là con đường ngắn nhất, bền vững nhất đưa di sản văn hóa của các dân tộc thiểu số về với cộng đồng; để di sản được các chủ nhân trân trọng, giữ gìn, phát huy và quảng bá.
NGUYỄN THỊ KIM VÂN