Thú thực, tôi không có ý định đi tìm ý nghĩa của nụ tầm xuân trong câu ca dao trên, vì rằng, “nụ tầm xuân nở ra xanh biếc” đã ít nhiều trở thành biểu tượng siêu thực của tình yêu biêng biếc xanh, đẹp mà buồn, chẳng còn gì để vọng trông. Tôi muốn đi tìm một nụ tầm xuân khác, có thực, hiện hữu bền bỉ giữa vô thường, khiêm nhường mà vẫn đáng đợi mong.

Tầm xuân là một loại cây thuộc họ hoa hồng (tên khoa học là rosa canina), có tên gọi khác là dã tường vi hay thập tỷ muội. Tầm xuân xuất xứ từ châu Âu, Tây Bắc Phi và Tây Á rồi nhân rộng khắp thế giới.
Theo cách gọi dân gian của người Việt, tầm xuân chứa đựng nhiều ý nghĩa. Ngoài ẩn dụ cho “nghênh xuân hoa” (hoa báo xuân) như một số loài hoa như lan, mai, đào... thường đại diện, “tầm” trong tầm xuân còn gắn với tên gọi của những gì thật quen thuộc, hoang dại và dân dã như sợi tầm ma, cây tầm gửi… Có phải vì thế mà hồng tầm xuân còn được gọi là dã tường vi?
Tầm xuân mang sức sống cực kỳ mãnh liệt, là loại cây có thân mọc cao nhất (có thể lên đến 10 m) trong thế giới hồng leo. Là loại khỏe nhất, “gan lì” nhất so với đám hồng ngoại vốn kiêu sa mà đỏng đảnh, lộng lẫy mà mong manh, vừa hứng chút nắng mưa, chút sương sa, gió táp đã “đổ bệnh”.
Sức sống ấy khiến tầm xuân được chọn làm cây để ghép rất phổ biến, dù là loại hồng ghép thoát thân (hồng “tree”) hay leo giàn. Vậy mà, sức sống bản năng căng tràn của tầm xuân bị triệt tiêu ngay trên thân thể của nó-trong thân phận “cây ghép”, mỗi khi có một mầm, chồi non mơn mởn nào vừa nhu nhú ra đời.
Tôi không nghĩ đó là nghịch lý của sự sinh tồn, bởi lẽ gốc tầm xuân đã sống hết ý nghĩa phận mình, đã tận hiến toàn bộ sức sống dồi dào từ thân, rễ để nuôi mầm ghép, nuôi hoa.
Câu chuyện lai ghép hay “nguyên bản”, gốc hay “vay mượn” trong nghề chơi hoa hồng lắm công phu này, hóa ra mờ nhạt trước giá trị thực của cái đẹp; kể cả cái đẹp nhìn thấy, ngửi thấy được của hương hoa sắc lá hay cái đẹp ẩn tàng trong sức sống mãnh liệt của thân, rễ tầm xuân. Miễn sao, ta đừng lãng quên hay cố tình phủ nhận giá trị và vị trí riêng có của nó.
Một lần cách đây không lâu, tôi tình cờ được chiêm ngưỡng một giàn hoa hồng đúng độ tháng 3 mùa xuân với nụ, hoa đương bung rộ ở một ngôi làng xa tít của tỉnh Kon Tum. Sắc đẹp của hoa hồng, hẳn nhiên không cần bàn cãi nữa. Nhưng cái hấp lực mê đắm của giàn hoa ấy lại nằm ở sức sống của nó. Thật tình tôi chưa từng thấy có loại hồng leo tường nào khỏe đến thế, kể cả cổ Sơn La, cổ Hải Phòng hay Ngỗng Tuyết…
Cành lá nó xanh mướt, cứng cáp ken đặc chi chít những nụ và chùm hoa. Đó chắc chắn không phải là sắc hoa, màu lá được “nuông chiều” mà dễ trở nên mong manh, ẻo lả. Ngược lại, nó tràn trề nhựa sống, khỏe khoắn, vươn mình lên khỏi những giới hạn không gian bằng vô số chùm hoa trắng, hồng và phơn phớt tím kết thành tường hoa, lộng lẫy và thơm mát như thể ta đang đứng dưới những “thiên đường” hồng ngoại nổi tiếng của trời Âu. Hỏi đến tôi mới biết, đó là giàn tầm xuân.
Thì ra, tầm xuân có hoa. Không những thế, hoa còn đẹp và thơm. Lúc ấy, lòng tôi thực ngỡ ngàng! Loài hoa ấy chỉ nở duy nhất một lần trong năm vào mùa xuân như “xuân bất tái lai”, như cái đẹp hạn hữu, kiên định và hiếm hoi đến khắc nghiệt.
Tôi bắt đầu ngưỡng mộ những người trồng tầm xuân để chơi hoa. Đó có lẽ là một cuộc chơi tự do và vô tư nhất. Vì phải thong thả, kiên nhẫn lắm mới biết trân quý những cái đẹp thuộc về khoảnh khắc, cái đẹp không lặp lại... trong mòn mỏi đợi chờ. Không có sự vô tư, nhẫn nại ấy, giá trị thực của một loài cây, khiêm nhường và bé mọn, chắc gì đã được người đời biết đến.
Bất giác, tôi nghĩ đến 2 câu thơ của học sĩ Âu Dương Tuân đời Đường, thấy thú vị làm sao sự gặp gỡ ý nghĩa của chữ “tầm” trong tầm xuân và “tầm” trong tâm thế kiếm tìm, đón đợi mùa xuân: “Tầm xuân tu thị tiên xuân tảo/Khán hoa mạc đãi hoa chi lão” (Tìm xuân phải đi trước cả mùa xuân/Ngắm hoa chớ đợi khi hoa tàn rụng).
Mặc những đằng đẵng tháng nắng ngày mưa, mặc những vô duyên buồn tẻ lúc cành trơ gai, trụi lá, tầm xuân đã âm thầm tích nhựa, lặng lẽ vươn mình dệt lũy, kết chùm, đan hoa, bung nở sắc xuân. Đáng cho người trồng hoa một cái kết viên mãn, một sự đáp đền dịu dàng và tròn vẹn. Như thể tin yêu và chờ đợi, bền lòng và vững tâm rồi cũng sẽ có lúc nở nụ tầm xuân.
Nụ tầm xuân, có phải từ đó đã khoác lên mình một tấm áo mới, không còn biếc ánh xanh hư huyền, chứa đựng niềm tiếc nuối, mà ẩn dụ cho những hy vọng có thực, như một “sắc hoa màu đợi” dung dị và khiêm nhẫn, qua bao đổi thay, mưa gió vẫn điềm nhiên báo hiệu xuân sang?