Chiếc chõng tre

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

(GLO)- Bước vào quán cà phê đầu đường Lý Tự Trọng (TP. Pleiku, tỉnh Gia Lai), cái cảm giác ấm cúng thân thuộc của một ngôi nhà quê thật lâu rồi bỗng trở lại trong tôi. Không chỉ bởi ngôi nhà rường theo mẫu cổ được chạm trổ khá đẹp, cảm giác toát lên từ những bộ bàn ghế, chiếc trường kỷ và cả chiếc tủ đựng sách dùng cho ông đồ nho xưa… tất cả đều làm bằng cây tre thân thuộc.

Sống trong thời đại kim khí, những bộ bàn ghế bằng gỗ quý hàng trăm triệu đồng, những chiếc giường “mô đéc”, những bộ bàn ghế bằng đệm mút bọc da hàng mới là cái để người ta để mắt, mà lạ thay, những vật dụng “nhà quê” như thế vẫn gợi nhớ, vẫn có sức sống trong lòng mỗi khi chạm đến.

 Minh họa: Huyền Trang
Minh họa: Huyền Trang


Là xứ sở của tre nứa nhưng hàng bao đời nay, Gia Lai nói riêng và cả Tây Nguyên nói chung, những vật dụng bàn ghế, giường, kệ… bằng tre nứa lại có vẻ xa lạ. Có người cắt nghĩa: Do Tây Nguyên là xứ gỗ, lại không hiếm những thứ gỗ quý nên người ta không màng đến những vật dụng bằng tre nứa. Thực ra thì vật dụng tre nứa đã có ở vùng đồng bằng từ xa xưa, vào cái thời mà rừng núi hãy còn rất gần gũi. Thế nên có người đã liệt nghề làm đồ gia dụng bằng tre nứa vào hàng những nghề cổ nhất. Sự tồn tại phổ biến một thời của nó là bởi một giá trị thẩm mỹ đích thực chứ không phải sự sẵn có hay không của vật liệu gỗ hay kim khí. Tất nhiên, để đạt được yêu cầu đó phải có nghề. Vì vậy, ở các làng quê Việt thường có những người thợ sống bằng nghề làm đồ tre. Hơn thế, ở miền Bắc còn có những làng chuyên sinh nhai bằng nghề làm đồ tre như làng Hồng ở Sóc Sơn (Hà Nội) hay Bùi Xá ở Hải Dương.       

Không hình thành làng nghề nhưng ở quê tôi xưa cũng có những người thợ chuyên về nghề làm đồ gia dụng bằng tre. Bấy giờ, trong khắp thôn xóm, nhà nào mà chẳng trồng tre. Nguyên liệu có sẵn nhưng tre phải được khai thác vào thời điểm những tháng mùa đông để không bị mọt. Muốn chắc hơn thì vùi xuống bùn ao, ra năm sẽ vớt lên. Dụng cụ hành nghề của người thợ làm đồ tre thật đơn giản: một cái rựa, chiếc cưa răng nhỏ, vài cái đục lưỡi hình bán nguyệt và chiếc bào hình lòng máng để bào mắt tre. Đồ gia dụng bằng tre nhiều chủng loại, tuy nhiên, phổ biến hơn cả vẫn là giường tre và đặc biệt là chiếc chõng tre thì dường như nhà nào cũng có. Thực tế hai thứ vật dụng này ai cũng có thể tự làm nhưng để ra đời được một sản phẩm vừa bền, vừa đạt giá trị thẩm mỹ thì chỉ có người thợ. Thoạt nhìn qua, con mắt nghề nghiệp của họ đã định được khúc tre nào dùng vào công đoạn nào bởi chỉ cần một khúc tre bị sử dụng “lạc điệu” là giá trị thẩm mỹ của sản phẩm sẽ bị ảnh hưởng. 4 chân bao giờ cũng là đoạn phần gốc nhưng phải cắt sao đó cho đủ 5 mắt tre để tránh rơi vào “cung xấu” (sinh-lão-bệnh-tử). Đoạn tiếp theo của cây tre thường được dùng cho một vị trí quan trọng nhất: xà dọc. Xà dọc yêu cầu phải thẳng nên nếu không lựa chọn được khúc tre đạt yêu cầu, người thợ phải dùng lửa uốn cho thẳng. Cuối cùng là phần ngọn, thẳng nhất nhưng cũng mỏng nhất vẫn được dùng làm giát. Công đoạn lựa chọn vật liệu tuy khó nhưng không thể bằng đục lỗ, ghép xà. Có thể nói đây là công việc khó nhất, bộc lộ rõ ràng tay nghề cao thấp của người thợ bởi hầu hết mộng phải đục hình tròn, tre lại là vật liệu mềm, dễ nứt vỡ. Thế nhưng, chỉ bằng thói quen và kinh nghiệm tự thân, các lỗ đục của người thợ chuyên nghiệp bao giờ cũng rất chuẩn xác. Khi ghép các mối liên kết lại, có cảm giác như chúng liền nhau dù không cần sử dụng đến keo hay một thứ vật liệu gắn kết nào. Với việc đảm bảo các yêu cầu kỹ thuật, những chiếc chõng tre, giường tre đạt độ bền đến độ giát của chúng “lên nước” láng bóng như được sơn véc ni.

Trong số không nhiều những đồ vật gắn bó thân thuộc với thôn quê, chiếc chõng tre có lẽ được xếp hàng đầu. Là vật dụng nhỏ gọn, dễ di chuyển, chiếc chõng tre có mặt trong mọi không gian giao tiếp. Quán nước bên gốc đa đầu làng bao giờ cũng có chiếc chõng tre để khách nghỉ chân và mọi chuyện xảy ra trong làng xã sốt nóng nhất bao giờ cũng bắt đầu từ đây. Khách đến nhà cũng có thể ngồi lên chiếc chõng tre một cách xuề xòa, thân mật. Mùa hè, vào những đêm trăng sáng, dưới vòm trời lồng lộng, người nhà quê vác chõng ra đầu làng hóng gió, ngắm trăng. Bên ấm nước chè xanh đậm chát, xa thì chuyện sử sách, thời thế; gần thì chuyện tình làng nghĩa xóm, chuyện cày bừa gieo hạt cho đến con trâu, con gà… cứ thế rộn rã ngỡ như không bao giờ dứt. Một nét văn hóa thật đẹp của làng quê Việt Nam!

Ấy vậy nhưng khi thôn xóm vắng bóng những mái nhà tranh thì đồ vật tre nứa nói chung và chiếc chõng tre nói riêng cũng dần biến mất. Giường “mô đéc”, sa lông gỗ quý, đệm mút cao cấp… đã chế ngự gần như hoàn toàn giường tre, chõng tre. Cuộc sống vận động ngày càng gấp gáp, người quê cũng hiếm dần những phút thảnh thơi trong khi nhu cầu thông tin thì đã có ti vi, điện thoại thông minh thay thế. Người thợ làm đồ tre ở quê gần như chẳng còn có dịp đụng đến nghề. Tuy nhiên, điều đáng mừng là những năm gần đây, trong xu thế bảo vệ môi trường, những chiếc chõng tre, bàn ghế bằng tre đang trở lại trong các nhà hàng, quán cà phê sang dù hãy còn rất thưa thớt. Người ta vẫn nói vui rằng “đặc sản nhà giàu bây giờ là những thứ xưa chỉ dành cho người nghèo”. Giá như vật dụng bằng tre cũng đang cùng xu thế ấy?

 

NGỌC TẤN

 

Có thể bạn quan tâm

Du hành với “Pleiku xưa và nay”

Du hành với “Pleiku xưa và nay”

(GLO)- Phố núi Pleiku (tỉnh Gia Lai) hơn nửa thế kỷ trước có gì thú vị? Triển lãm ảnh “Ký ức Pleiku” diễn ra tại Bảo tàng tỉnh từ ngày 24-1 đến 21-2 đưa người xem bước vào chuyến du hành trở về Pleiku xưa, thêm cơ sở so sánh với sự phát triển không ngừng của đô thị trung tâm khu vực Bắc Tây Nguyên.

Cỏ xanh về phía cũ

Cỏ xanh về phía cũ

(GLO)- Bài thơ “Cỏ xanh về phía cũ” của Vân Phi như một bức tranh ký ức trầm lắng về mái ấm gia đình, nơi thời gian dường như lặng lẽ quay trở lại qua những hình ảnh quen thuộc, giản dị thấm đượm tình cảm và ký ức sâu sắc khiến người ta thổn thức.

Người gùi hơ’mon về đâu

Người gùi hơ’mon về đâu

(GLO)- Bài thơ Người gùi hơ’mon về đâu của Vân Phi mở ra không gian đẫm hơi men rượu cần, tiếng hát lẫn trong gió khuya và những ký ức chảy trôi theo thời gian, mơ hồ giữa hiện thực và quá khứ. Tất cả như gợi lên sự tiếc nuối, khắc khoải về một giá trị của truyền thống đang dần phai nhạt.

Nhịp xoang

Nhịp xoang

(GLO)- Bài thơ "Nhịp xoang" của Nguyễn Đình Phê mang đậm hơi thở văn hóa Tây Nguyên, tái hiện không khí lễ hội cồng chiêng rộn ràng, nơi con người hòa cùng thiên nhiên và thần linh. Bài thơ không chỉ ca ngợi vẻ đẹp văn hóa mà còn truyền tải tinh thần đoàn kết, gắn bó bền chặt.

Thơ Sơn Trần: Lời hẹn

Thơ Sơn Trần: Lời hẹn

(GLO)- Bài thơ "Lời hẹn" của Sơn Trần không chỉ mô tả vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn là những hẹn ước, kỳ vọng về sự trở về, đoàn tụ, gắn kết. Hình ảnh trong thơ vừa thực tế, vừa thi vị, mang đến cho người đọc cảm nhận ấm áp về tình yêu quê hương, về sự đổi thay tươi đẹp của đất trời vào xuân.

Thơ Vân Phi: Xuân dậy thì

Thơ Vân Phi: Xuân dậy thì

(GLO)- "Xuân dậy thì" của tác giả Vân Phi mang đến những xúc cảm thanh tân về mùa xuân và tình yêu, đưa chúng ta vào không gian tràn đầy sức sống của một buổi sáng quê hương. Mùa xuân được nhen lên trên từng chồi non lộc biếc, và mùa xuân cũng bắt đầu khi tình yêu có những hồi đáp ngọt ngào...

Nụ cười Tây Nguyên

Nụ cười Tây Nguyên

(GLO)- Đi tìm nụ cười Tây Nguyên chính là tìm đến cái đẹp nguyên sơ. Nó ẩn sâu trong đôi mắt, nó hé nhìn qua đôi tay trong vũ điệu, nó giấu mình sau chiếc gùi đầy ắp lúa, bắp và nó cũng chân tình, e ấp khi nói lời thương. Nụ cười ấy hồn hậu, sâu lắng và tự nhiên như núi rừng, sông suối.

Thơ Nguyễn Thanh Mừng: Khảo cổ An Khê

Thơ Nguyễn Thanh Mừng: Khảo cổ An Khê

(GLO)- Bài thơ "Khảo cổ An Khê" như một cách "phượt" về quá khứ, về những dấu tích cổ xưa của Nguyễn Thanh Mừng. Để rồi, ở đó, tác giả lại tự "khảo cổ chính mình", khát khao tìm lại những giá trị thuần khiết, giản dị của con người và văn hóa dân tộc.

Thơ Nguyễn Đức Nam: Đừng buồn nhé, em!

Thơ Nguyễn Đức Nam: Đừng buồn nhé, em!

(GLO)- Bài thơ “Đừng buồn nhé, em!” của Nguyễn Đức Nam phản ánh một thông điệp sâu sắc về thời gian, sự thay đổi và sự chấp nhận trong cuộc sống. Tác giả dùng hình ảnh dòng sông để minh họa cho những chu kỳ trong đời người và những thăng trầm mà mỗi người phải trải qua.

Thơ Lê Vi Thủy: Mùa em

Thơ Lê Vi Thủy: Mùa em

(GLO)- Mùa xuân không chỉ đơn thuần là thời gian mà còn là biểu tượng của sự tái sinh, của tình yêu thương, sự đoàn tụ và những ước nguyện hạnh phúc. Đó cũng chính là thông điệp mà tác giả Lê Vi Thủy gửi gắm đầy nhẹ nhàng, tinh tế trong bài thơ "Mùa em". Mời các bạn cùng đọc.

Thơ Nguyễn Ngọc Hưng: Gọi xuân

Thơ Nguyễn Ngọc Hưng: Gọi xuân

(GLO)- Bài thơ "Gọi xuân" của tác giả Nguyễn Ngọc Hưng mang đậm không khí của mùa đông, song cũng là lời mời gọi, khắc khoải của mùa xuân. Từng câu thơ như một niềm khát khao về sự thay đổi, hồi sinh và tươi mới...

Thơ Lữ Hồng: Suốt mùa tuổi ngọc

Thơ Lữ Hồng: Suốt mùa tuổi ngọc

(GLO)- Mùa xuân vừa đến, cho ta cái cớ để nhìn lại chặng đường dài mình đã đi qua. Thêm một tuổi là thêm nhiều những hạnh ngộ và chia ly, nguyện ước và mong chờ. Nhưng chừng nào còn tha thiết với đời là ta còn “tuổi ngọc”. Bài thơ của tác giả Lữ Hồng dưới đây như thay lời muốn nói...

Thơ Nguyễn Ngọc Hạnh: Quê ngoại

Thơ Nguyễn Ngọc Hạnh: Quê ngoại

(GLO)- Bài thơ "Quê ngoại" của Nguyễn Ngọc Hạnh không chỉ là lời tỏ bày tình cảm quê hương mà còn là một thông điệp sâu sắc về sự gắn bó với cội nguồn. Quê hương dù có xa hay gần, luôn là một phần không thể thiếu trong cuộc đời mỗi người, là điểm tựa để chúng ta tìm về trong những lúc lạc lõng nhất.

Thơ Lê Từ Hiển: Hoa vô thường

Thơ Lê Từ Hiển: Hoa vô thường

(GLO)- "Hoa vô thường" của Lê Từ Hiển mang đậm dấu ấn của sự chiêm nghiệm về cuộc đời, sự vô thường của thời gian qua những biến chuyển của thiên nhiên. Mỗi câu thơ như một khoảnh khắc dịu dàng, mà ở đó, tác giả lặng lẽ nhìn nhận và đón nhận mọi biến động của đời sống...

Thơ Nguyễn Ngọc Hạnh: Giếng xưa

Thơ Nguyễn Ngọc Hạnh: Giếng xưa

(GLO)- Với "Giếng xưa", tác giả Nguyễn Ngọc Hạnh đã khắc họa bức tranh đầy khắc khoải, suy tư về cuộc đời. Khi thời gian lặng lẽ trôi qua, mỗi hình ảnh đều như một lời tâm sự rất riêng tư nhưng cũng thật gần gũi và đầy cảm xúc.

Cuộc thi viết “Pleiku - Khát vọng vươn lên” năm 2025 nhận tác phẩm từ ngày 20-1

Cuộc thi viết “Pleiku - Khát vọng vươn lên” năm 2025 nhận tác phẩm từ ngày 20-1

(GLO)- Nhằm tiếp tục phát huy hiệu quả công tác tuyên truyền, quảng bá hình ảnh, con người phố núi Pleiku, UBND thành phố phối hợp với Báo Gia Lai tổ chức Cuộc thi viết về chủ đề “Pleiku-Khát vọng vươn lên” năm 2025 trên các ấn phẩm của Báo Gia Lai. Ban tổ chức bắt đầu nhận bài từ ngày 20-1.