Bài 1: Mốc son chói lọi của lịch sử

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
LTS: Vào những ngày cuối tháng 4, nhóm phóng viên Báo SGGP trở lại Điện Biên Phủ khi thành phố này bắt đầu vào cao điểm chuẩn bị cho lễ kỷ niệm 65 năm ngày chiến thắng. Không chỉ những người cựu chiến binh năm xưa, người dân nơi đây, mà cả những du khách, trong đó có chúng tôi, đều đang muốn lắng mình lại trong một cuộc trở về của hồi ức. 
 
17g30 phút ngày 7-5-1954, lá cờ “Quyết chiến quyết thắng” của quân đội ta tung bay trên nóc hầm tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Ảnh: TL
Chỉ bằng sức người, vũ khí thô sơ và ý chí quyết chiến, quyết thắng, quân đội nhân dân Việt Nam đã tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương của đội quân viễn chinh Pháp được Mỹ giúp sức. 65 năm trôi qua, câu chuyện của các chứng nhân lịch sử, những đổi thay của mảnh đất huyền thoại ghi nhận được đã khiến chúng tôi thêm một lần nữa thấm thía giá trị của “9 năm làm một Điện Biên, nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng”.
Ngày 7-5-1954, chiến dịch Điện Biên Phủ đã toàn thắng và đi vào lịch sử như một bản hùng ca chói lọi, đột phá thành trì của hệ thống nô dịch thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc. Những địa danh: Mường Thanh, Hồng Cúm, Him Lam… mãi là những mốc son cho tinh thần, ý chí đấu tranh kiên cường trên con đường đi tới tự do, độc lập của nhân dân ta. Dù 65 năm đã trôi qua nhưng ký ức về cuộc chiến với chiến dịch “56 ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt” và tinh thần của chiến thắng Điện Biên Phủ như vẫn còn nguyên sức sống.
Đỉnh cao của nghệ thuật quân sự
Trở lại Điện Biên những ngày này, thung lũng lòng chảo Mường Thanh ngày nào nay đã lột xác trở thành đô thị khang trang, hiện đại. Từ trên đỉnh đồi D1 nhìn xuống, những vết tích của quả bộc phá nặng gần 1 tấn vẫn hằn sâu trên đồi A1, xa hơn chút nữa là hầm trú ẩn nơi tướng De Castries vẫy cờ trắng xin hàng… vẫn còn đó. Những ký ức về ngày tháng oanh liệt “máu trộn bùn non”, “gan không núng, chí không mòn” lại cuồn cuộn chảy về.
Cuối năm 1953 đầu năm 1954, khi bắt đầu triển khai Kế hoạch Navarre, phát hiện sự di chuyển của quân ta lên hướng Tây Bắc, tướng Henri Navarre đã quyết định tăng cường lực lượng và xây dựng Điện Biện Phủ thành tập đoàn cứ điểm mạnh. Đây được coi như “cái bàn xoay” có thể xoay đi 4 phía Việt Nam, Lào, Miến Điện, Trung Quốc, đồng thời là “cái chìa khóa” để bảo vệ Thượng Lào, từ đó đánh chiếm lại các vùng đã mất. Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ được thực dân Pháp xây dựng gồm 49 cứ điểm, tổ chức thành 8 cụm, được bố phòng chặt chẽ với tổng số hơn 16.000 quân. Trong đó có nhiều đơn vị tinh nhuệ, được trang bị phương tiện, vũ khí mới, hỏa lực mạnh. Đây được xem là một tập đoàn cứ điểm mạnh chưa từng có ở Đông Dương, một pháo đài được mệnh danh là bất khả xâm phạm.
Căn cứ vào tình hình thực tế, bộ chỉ huy chiến dịch do Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm tổng tư lệnh mặt trận đã thực hiện phương châm tác chiến “Đánh nhanh, thắng nhanh” trong 3 đêm 2 ngày. Kế hoạch tác chiến được phổ biến tới các đơn vị ngoài mặt trận, dự kiến ngày nổ súng là 25-1-1954. Mọi công tác được chuẩn bị kỹ lưỡng, pháo đã kéo vào trận địa trong tư thế sẵn sàng, chỉ chờ mệnh lệnh. Đa số mọi người đều nhất trí, đồng thuận theo phương án này nhằm giải quyết vấn đề tiếp tế hậu cần trong điều kiện Điện Biên Phủ quá xa hậu phương. Mặt khác, nếu thời gian chuẩn bị dài, địch sẽ tăng thêm quân, tập đoàn cứ điểm ngày càng mạnh, sẽ làm ta mất cơ hội tiêu diệt địch. Song chỉ 10 tiếng trước khi mở màn chiến dịch, ngày 26-1-1954, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã có quyết định mang tính chiến lược: chuyển từ “đánh nhanh, thắng nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc”.
Quyết định được cho là “hoãn binh” - đi ngược lại với ý chí của số đông khi ấy - đã khiến nhiều người bất ngờ, thậm chí hoang mang. Song đây lại chính là một trong những thay đổi mang ý nghĩa quan trọng, quyết định sự toàn thắng của ta trên trận chiến lịch sử Điện Biên Phủ. Nhiều năm sau, khi nói về chiến dịch Điện Biên Phủ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp thổ lộ: “Để ra quyết định này, tôi đã trải qua 12 đêm ngủ không trọn giấc. Điều trăn trở không chỉ vì những lời Cụ Hồ dặn (chiến dịch này rất quan trọng, chỉ được đánh thắng, không chắc thắng thì không đánh) mà còn vì trách nhiệm trước xương máu của chiến sĩ...”.
Sau gần 3 tháng “hoãn binh”, ngày 13-3-1954, ta đã giành chiến thắng mở màn ở cụm cứ điểm Him Lam. Đây là bàn đạp quan trọng, vừa động viên tinh thần bộ đội, vừa khẳng định một bước tiến mới của quân đội Việt Nam. Ta đã thực hiện được việc không tưởng khi đào được đường hầm ngầm trên đồi A1 từ vị trí của ta đến gần hầm chỉ huy cứ điểm của Pháp, đặt khối thuốc nổ khổng lồ để tiêu diệt lô cốt quan trọng này. Tối 6-5-1954, khối bộc phá 960kg nổ trên đồi A1 báo hiệu ngày tàn của Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Ngày 7-5-1954, sau khi khai thông chốt chặn A1, quân ta từ các hướng tiến thẳng vào hầm chỉ huy của De Castries. Không còn sự kháng cự, De Castries cùng bộ chỉ huy quân Pháp và sau đó là toàn bộ quân đồn trú từ các hầm trú ẩn và các cứ điểm ra hàng. Lá cờ “Quyết chiến quyết thắng” tung bay trên nóc hầm De Castries. Giây phút này cũng đánh dấu việc toàn bộ Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ bị tiêu diệt, kết thúc cuộc chiến gian khổ ác liệt trong tư thế của người chiến thắng.
Trải qua 56 ngày đêm chiến đấu kiên cường và anh dũng, quân và dân ta đã xóa sổ hoàn toàn tập đoàn cứ điểm quân sự mạnh nhất Đông Dương của quân đội Pháp. Điện Biên Phủ là một trong những trận quyết chiến chiến lược trong lịch sử Việt Nam, là đòn tiến công tiêu diệt lớn nhất của quân đội ta, quyết định “số phận” quân đội viễn chinh Pháp trong cuộc chiến tranh Đông Dương.
Chiến thắng làm thay đổi thế giới
Đối với thực dân Pháp, chiến thắng Điện Biên Phủ là một thất bại thảm hại và bất ngờ. Tướng De Castries, sau khi thất bại trở về Pháp, trả lời trước ủy ban điều tra của Bộ Quốc phòng Pháp rằng: “Người ta có thể đánh bại một quân đội, chứ không thể đánh bại được một dân tộc”. Nhà báo Pháp Roy Jules Roy - người tham gia cuộc chiến khi viết “Khúc tưởng niệm cho cuộc bại trận ở Điện Biên Phủ” đã nhận định: “Đánh bại Tướng Navarre chính là những chiếc xe đạp thồ được 200-300kg, được đẩy đi bằng những con người dù đói cũng nhất quyết không ăn vào số gạo đưa đi tiếp tế cho quân đội, và ngủ nghỉ trên những mảnh nhựa trải dưới đất trên đường đi dài đến hàng mấy trăm cây số”. Đó là sức mạnh của một cuộc chiến tranh nhân dân được phát động một cách tuyệt vời và khéo léo.
PGS-TS Christian C.Lentz (Đại học North Carolina Chapel Hill, Mỹ) khẳng định: “Trận Điện Biên Phủ đã làm thay đổi thế giới! Chiến thắng góp phần khích lệ và củng cố vị thế của Việt Nam trong các cuộc đàm phán ngoại giao, ký kết Hiệp định Genève chấm dứt 8 năm chiến tranh, giải tán liên bang Đông Dương và thừa nhận chế độ cộng hòa dân chủ ở miền Bắc Việt Nam từ vĩ tuyến 17. Hơn thế, chiến thắng này cũng có tác động lan tỏa, khích lệ các dân tộc bị áp bức khác phải quyết tâm hơn để đấu tranh chống chế độ đế quốc”.
Chiến thắng Điện Biên Phủ có một tầm quan trọng lịch sử quốc tế và đã mở ra một giai đoạn mới trong cuộc đấu tranh anh hùng của các dân tộc thuộc địa nhằm tự giải phóng khỏi ách chủ nghĩa đế quốc Anh, Pháp, Bỉ và Mỹ. Tinh thần Điện Biên Phủ là ánh đèn pha chiếu rọi cho hàng triệu người bị áp bức trên toàn thế giới. Chỉ 3 tháng sau trận Điện Biên Phủ, nhân dân Algérie, thuộc địa lớn nhất của Pháp ở châu Phi đã nổi dậy đòi độc lập, nửa năm sau lại đến các nước Maroc, Tunisia và nhiều nước khác cũng nổi dậy những năm sau đó. Đến năm 1967, Pháp đã buộc phải trao trả quyền độc lập cho tất cả các nước là thuộc địa của Pháp. Đại thắng Điện Biên Phủ của Việt Minh là một thảm họa đánh dấu cho thất bại hoàn toàn của Pháp trong việc tái xây dựng thuộc địa Đông Dương nói riêng và đế quốc thực dân của mình nói chung sau thời Chiến tranh thế giới thứ hai.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Chiến thắng Điện Biên Phủ như là một mốc son chói lọi bằng vàng của lịch sử. Nó ghi rõ nơi chủ nghĩa thực dân lăn xuống dốc và tan rã, đồng thời phong trào giải phóng dân tộc khắp thế giới đang lên cao đến thắng lợi hoàn toàn. Đó là thắng lợi vĩ đại của nhân dân ta mà cũng là thắng lợi chung của tất cả các dân tộc bị áp bức trên thế giới”.
Theo Đại tướng Võ Nguyên Giáp, “Điện Biên Phủ là một trận quyết chiến chiến lược quy mô lớn, tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương hồi bấy giờ của đội quân viễn chinh xâm lược Pháp được đế quốc Mỹ giúp sức. Thắng lợi rực rỡ của trận quyết chiến chiến lược ấy đã có ý nghĩa quyết định đối với toàn cục diện quân sự và chính trị trên chiến trường Đông Dương, đến thành công của hội nghị Genève, đưa cuộc kháng chiến lâu dài anh dũng của quân dân ta chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ đến thắng lợi vĩ đại”.
Thu Hà-Phan Thảo-Bảo Vân-Bích Quyên (SGGP)

Có thể bạn quan tâm

Dư vang Plei Me

Dư vang Plei Me

(GLO)- 60 năm đã trôi qua kể từ chiến thắng Plei Me lịch sử (tháng 11-1965), nhưng dư vang của trận đầu thắng Mỹ trên chiến trường Tây Nguyên vẫn còn vẹn nguyên trong ký ức của những cựu binh già. 

Một góc trung tâm xã Kon Chiêng.

Đánh thức Kon Chiêng

(GLO)- Từ quốc lộ 19 rẽ vào tỉnh lộ 666 khoảng 40 km thì đến xã Kon Chiêng. Hai bên đường là những triền mía xanh mát, thấp thoáng những mái nhà sàn trong không gian xanh thẳm của núi rừng, gợi về một Kon Chiêng đang vươn mình đổi thay.

Những chiếc bè nuôi thủy sản của ngư dân bị sóng đánh vỡ tan, trôi dạt ven biển.

Xác xơ làng chài sau cơn bão dữ...

(GLO)-Sau cơn bão dữ Kalmaegi (bão số 13), những làng chài vốn yên bình, đầy sinh khí bỗng chốc trở nên xác xơ, trơ trọi và ngổn ngang chỉ sau vài giờ bão quét qua. Cảnh quan rồi sẽ dần hồi phục, nhưng những mất mát, tổn thất vẫn sẽ đè trĩu trên đôi vai người dân ven biển rất lâu nữa...

Cảnh hoang tàn, đổ nát ở làng chài Nhơn Lý, Gia Lai. Ảnh: Đức Nhật

Gượng dậy sau bão

Bão Kalmaegi (bão số 13) đã tan, trên dải đất ven biển Gia Lai, Đắk Lắk, người dân lặng lẽ nhặt lại từng tấm tôn, viên ngói, gom góp chút bình yên từ đống hoang tàn.

Sợi tơ mong manh kết nối trăm năm

Sợi tơ mong manh kết nối trăm năm

Khi nói đến sưu tầm đồ cổ ở Việt Nam, người ta thường nghe tới đồ gốm, sành sứ, hay đồ gỗ… chứ ít ai biết đến những món đồ vải mà qua đó thể hiện tay nghề thêu huy hoàng, vang danh thế giới của người Việt hàng trăm năm trước.

Tiến sĩ Nguyễn Minh Kỳ lọt Top 2% nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới năm 2025.

Tiến sĩ Nguyễn Minh Kỳ và hành trình vào top 2% nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới

(GLO)- Với nghiên cứu về ô nhiễm vi nhựa và công nghệ xử lý nước thải, Tiến sĩ Nguyễn Minh Kỳ (SN 1985, Phân hiệu Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh tại Gia Lai) được Đại học Stanford (Mỹ) và Nhà xuất bản Elsevier vinh danh trong top 2% nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới năm 2025.

Người lưu giữ hàng trăm “báu vật” Chư A Thai

Người lưu giữ hàng trăm “báu vật” Chư A Thai

(GLO)- Ở xã Chư A Thai (tỉnh Gia Lai), có một người đàn ông gắn bó cả cuộc đời với những “ký ức triệu năm” còn sót lại dưới lòng đất. Gần 25 năm qua, ông Rcom Sin đã lặng lẽ sưu tầm và trân trọng gìn giữ rất nhiều khối gỗ hóa thạch kết tinh của đất trời.

Sê San: Sông kể chuyện đời…

Sê San: Sông kể chuyện đời…

(GLO)- Dòng Sê San miệt mài chở nặng phù sa; sóng nước bồng bềnh không chỉ kể câu chuyện mưu sinh, bảo vệ phên giậu, mà còn gợi mở tương lai phát triển bền vững, góp phần khẳng định vị thế của vùng biên trong hành trình dựng xây quê hương, đất nước.

Chiếc nỏ của người lính trận Ia Drăng

Chiếc nỏ của người lính trận Ia Drăng

(GLO)- Mang ra chiếc nỏ được cất giữ hơn 30 năm, ông Siu Long (làng Gòong, xã Ia Púch, tỉnh Gia Lai)-nhân chứng trong trận đánh thung lũng Ia Drăng 60 năm trước chậm rãi nói: “Tôi muốn tặng món quà Tây Nguyên này cho một người bạn đến từ nước Mỹ”.

Ông Ksor Yung có lối sống trách nhiệm, gần gũi nên được mọi người quý mến. Ảnh: R’Ô Hok

Ksor Yung: Từ lối rẽ sai lầm đến con đường sáng

(GLO)- Từ một người từng lầm lỡ, ông Ksor Yung (SN 1967, ở xã Ia Rbol, tỉnh Gia Lai) đã nỗ lực vươn lên trở thành người có uy tín trong cộng đồng. Ông tích cực tham gia vận động, cảm hóa những người sa ngã, góp phần giữ gìn an ninh trật tự và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc.

null