Vì sao Qui Nhân lại trở thành Qui Nhơn?

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
Vào thế kỷ thứ 17, Qui Nhơn (hay Quy Nhơn) ngày nay có tên gọi là Qui Nhân, được ký âm là Quignin. Đến năm 1935,  trong bộ Niên báo nghiên cứu của Đại học quốc lập Đài Bắc vẫn thấy cách viết này.

Theo 'Đại Nam nhất thống chí', năm 1602, phủ Hoài Nhân được đổi tên thành phủ Qui Nhân ẢNH: T.L
Theo 'Đại Nam nhất thống chí', năm 1602, phủ Hoài Nhân được đổi tên thành phủ Qui Nhân ẢNH: T.L

TP.Qui Nhơn (Quy Nhơn) ngày nay là vùng đất thuộc thành Đồ Bàn của nước Chiêm Thành (khoảng nửa đầu thế kỷ 15). Thời đó, Đồ Bàn có tên là Vijaya (Phạn ngữ: विजय/danh từ giống đực, có nghĩa là thắng lợi hay vùng, miền, khu vực). Năm 1471, sau khi bình định Chiêm Thành, vua Lê Thánh Tông đặt tên vùng này là phủ Hoài Nhân (懷仁). Theo Đại Nam nhất thống chí, năm 1602, phủ Hoài Nhân đổi tên thành phủ Qui Nhân. Xin lưu ý, trong giai đoạn này chưa có chữ Quốc ngữ, cư dân Đàng Trong mới hình thành nên nhiều khả năng địa danh 懷仁 và 歸仁 được gọi là Hoài Nhân và Qui Nhân. 

Hoài Nhân có nghĩa là nghĩ về điều nhân; còn Qui Nhân thường được hiểu là vùng đất qui tụ người tài, người nghĩa hiệp. Song căn cứ vào Hán ngữ thì cần hiểu chính xác Qui nhân (歸仁) là quay về với lòng nhân đức. Điều này thể hiện quan điểm ‘Đức trị’ của vua Lê Thánh Tông.
Qui Nhân thành Qui Nhơn là do kỵ húy?
Trong giai đoạn chữ Quốc ngữ còn phôi thai (thế kỷ 17), địa danh 歸仁 (Qui Nhân) được ký âm là Quignin trong báo cáo của Christoforo Borri năm 1618. Đến năm 1935, trong bộ Niên báo nghiên cứu của Khoa Sử học (Đại học quốc lập Đài Bắc) vẫn cho thấy cách viết Quignin 鄭仁 (tập 2, trang 18). Về sau, phụ âm gn được đổi thành nh nên Quignin được viết là Quinhin. Đây là cách viết trong những bản tường trình thường niên của João Roiz và Gaspar Luís trong giai đoạn năm 1623 - 1626. Chữ nhin chính là ký âm của 2 chữ nhân trong Hán ngữ: 人 (người) và 仁 (lòng nhân).

TP. Qui Nhơn (Quy Nhơn) ngày nay tươi xanh và trù phú ẢNH: LÊ HỒ BẮC
TP. Qui Nhơn (Quy Nhơn) ngày nay tươi xanh và trù phú ẢNH: LÊ HỒ BẮC
Từ điển Việt – Bồ - La (năm 1651) đã ghi nhận điều này: nhin người; nhin đức; nhin nghĩa (tức nhân đức, nhân nghĩa). Như vậy, đến giữa thế kỷ 17, chữ 仁 (nhân) có cách viết chữ Quốc ngữ là nhin, chưa biến thành nhơn trên văn bản, nghĩa là vẫn còn âm Qui Nhân của chữ 歸仁 chứ chưa biến thành Qui Nhơn. Vào thời đó, người phương Tây còn gọi Quinhin là Pullucambi (theo cách của người Bồ Đào Nha) hoặc Qui Nong (cách gọi của người Anh).
Có quan điểm cho rằng do luật kỵ húy thời Minh Mạng và Thiệu Trị nên Qui Nhân được gọi là Qui Nhơn, nhiều địa danh có chữ nhân khác ở Qui Nhơn cũng bị đổi thành nhơn. Tuy nhiên, thời Minh Mạng và Thiệu Trị diễn ra từ giai đoạn cuối thế kỷ 18 đến nửa đầu thế kỷ 19, trong khi đó địa danh 歸仁 được người Việt đọc là Qui Nhân từ đầu thế kỷ 17, vì thế khả năng kỵ húy không thể xảy ra. Điều này chỉ có thể lý giải qua cách phát âm giữa Đàng Ngoài và Đàng Trong. Ví dụ như phần vần an và ân theo thời đã biến thành ơn: đàn/đờn, hán/hớn, san/sơn; ân/ơn, chân/chơn, nhân/nhơn… Những từ biến thể vẫn được công nhận là từ Hán-Việt.
Năm 1773, Từ điển Việt - La của Pigneau de Béhaine cho thấy địa danh Qui Nhơn; Từ điển Taberd (1838) cũng ghi nhận Qui Nhơn với chú thích chữ Nôm là 歸仁 (tr.411). Như vậy, trong giai đoạn này đã xuất hiện cách viết giống nhau giữa chữ Hán và Nôm là 歸仁, và có thể đọc, viết theo âm Hán-Việt hoặc âm Nôm là Qui Nhân hoặc Qui Nhơn.
Phần lớn văn bản tiếng Việt từ nửa cuối thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ 20 đều ghi là Qui Nhơn, văn bản tiếng nước ngoài viết là Quinhon hoặc Qui Nhon, nghĩa là chữ Qui đều được viết i ngắn. Tuy nhiên, căn cứ vào ngữ âm và chính tả hiện hành, những từ bắt đầu bằng phụ âm ghép qu (phụ âm q + âm đệm u), khi kết hợp với nguyên âm i ngắn đều phải đổi thành y dài, do đó Qui Nhơn sẽ thành Quy Nhơn.
Vì vậy, nếu căn cứ vào thói quen xã hội thì viết là Qui Nhơn (cách viết cũ), còn dựa vào ngữ âm và chính tả tiếng Việt hiện nay thì đổi thành Quy Nhơn. Dĩ nhiên, cần thận trọng cân nhắc, dựa vào những yếu tố khác nữa để quyết định nên giữ hay thay đổi chính tả tên gọi của địa danh này.
Theo Vương Trung Hiếu (Thanh Niên)

Có thể bạn quan tâm

Cứu lấy di sản nhà dài Ê Đê

Cứu lấy di sản nhà dài Ê Đê

Trong nhịp đô thị hóa, nhà dài dần vắng bóng tại các buôn làng Ê Đê. Có ngôi nhà dài gần như nguyên bản, nhưng ông Y Jui Êban ở buôn Kmrơng Prông B (xã Ea Tu, TP Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk) đang lo có thể đổ sập bất kỳ lúc nào.

Tôn giáo luôn đồng hành cùng dân tộc

Tôn giáo luôn đồng hành cùng dân tộc

Việc Việt Nam tổ chức thành công Đại lễ Phật đản Liên Hợp Quốc - Vesak 2025 một lần nữa khẳng định vai trò ngày càng lớn của Phật giáo Việt Nam trong đời sống tôn giáo quốc tế.

Ksor Mang nặng lòng với văn hóa Jrai

Ksor Mang nặng lòng với văn hóa Jrai

(GLO)- Nhiều năm qua, anh Ksor Mang (SN 1986, buôn Phu Ma Nher, xã Ia Rtô, thị xã Ayun Pa, tỉnh Gia Lai) có nhiều đóng góp trong việc gìn giữ và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Jrai, nhất là việc truyền dạy cồng chiêng cho thế hệ trẻ.

Xác lập 5 kỷ lục Phật giáo Việt Nam

Xác lập 5 kỷ lục Phật giáo Việt Nam

Trong khuôn khổ lễ bế mạc Đại lễ Phật đản Liên Hiệp Quốc - Vesak 2025 diễn ra ngày 8/5, Tổ chức Kỷ lục Việt Nam ghi nhận cùng lúc 5 kỷ lục về Phật giáo. Các kỷ lục được trao tặng cho Ban Văn hóa Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

Xa dần tiếng trống hơ gơr

Xa dần tiếng trống hơ gơr

(GLO)- Đối với đồng bào các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, trống là vật thiêng, có Yàng trống bảo hộ, có giá trị cao nên cất giữ nơi trang trọng và được đem ra dùng trong những dịp lễ hội lớn của buôn làng hoặc gia đình. Ngày nay, các buôn làng ở Tây Nguyên dường như xa dần tiếng trống hơ gơr.

Nhà giáo Tạ Chí Tào tặng hiện vật quý cho Bảo tàng tỉnh

Nhà giáo Tạ Chí Tào tặng hiện vật quý cho Bảo tàng tỉnh Gia Lai

(GLO)- Nhiều lần đến tham quan Bảo tàng Hồ Chí Minh (thuộc Bảo tàng tỉnh Gia Lai), nhà giáo Tạ Chí Tào rất tâm đắc với những hiện vật thể hiện tấm lòng của người dân Tây Nguyên đối với Bác. Vì vậy, ông đã quyết định trao tặng một số hiện vật liên quan đến Bác Hồ mà mình đã sưu tầm cho Bảo tàng tỉnh.

Tương lai viết nên từ bản lĩnh văn hóa

Tương lai viết nên từ bản lĩnh văn hóa

Di sản nếu không được số hóa, không được kể lại theo cách của thời đại sẽ dần bị đứt gãy trong trí nhớ cộng đồng. Một thế hệ lớn lên không thấy được những giá trị đã tạo nên cội nguồn sẽ khó tìm thấy niềm tự hào, khó kiến tạo tương lai có chiều sâu văn hóa.

Di sản người Anh hùng trên đất Tây Nguyên

Di sản người Anh hùng trên đất Tây Nguyên

(GLO)- Giữa cái nắng oi ả của tháng 4, chúng tôi từ TP. Pleiku vượt hơn 70 km về thăm làng Stơr (xã Tơ Tung, huyện Kbang, tỉnh Gia Lai), quê hương của Anh hùng Núp. Nơi đây có nhà lưu niệm mang dấu ấn lịch sử-văn hóa độc đáo, thu hút đông đảo du khách đến tham quan, tìm hiểu.

Di sản Hán Nôm: Khai mở lịch sử văn hóa Gia Lai

Di sản Hán Nôm khai mở lịch sử văn hóa Gia Lai

(GLO)- Có những trầm tích văn hóa nằm im lìm trong những đạo sắc phong cũ kỹ, tờ khế ước ruộng đất phủ bụi thời gian hay văn tế cổ xưa xướng lên nơi đình làng. Tại Gia Lai, kho báu di sản Hán Nôm ấy đang dần được đánh thức, góp phần khai mở lịch sử văn hóa của vùng đất cao nguyên.

Làng Mông trên cao nguyên

Làng người Mông trên cao nguyên

(GLO)- Tính đến thời điểm này, những hộ gia đình người Mông đã sinh sống được 42 năm trên cao nguyên Gia Lai. Vùng đất mà họ chọn là xã Ya Hội, huyện Đak Pơ. Theo thời gian, dấu ấn người Mông ngày càng in đậm trên mảnh đất này.

Phụ nữ làng Groi phát huy nghề dệt thổ cẩm

Phụ nữ làng Groi phát huy nghề dệt thổ cẩm

(GLO)- Gần 2 năm đi vào hoạt động, Câu lạc bộ (CLB) Dệt thổ cẩm làng Groi (xã Ya Hội, huyện Đak Pơ) đã trở thành mái nhà chung cho những phụ nữ yêu thích nghề dệt. Thông qua các buổi sinh hoạt, chị em có cơ hội giao lưu, chia sẻ kinh nghiệm và chung tay gìn giữ, phát huy nghề dệt truyền thống.

Lễ cúng bến nước. Ảnh: M.H

Bến nước buôn Pông

(GLO)- Bến nước, dòng sông cũng như tập tục của bà con Jrai đã trở nên quen thuộc với tôi trong thời gian dài công tác tại ngôi trường bên bờ sông Ba.