Sự khác biệt trong phong tục cúng ông Công, ông Táo ở 3 miền Bắc-Trung-Nam

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
0:00 / 0:00
0:00
  • Nam miền Bắc
  • Nữ miền Bắc
  • Nữ miền Nam
  • Nam miền Nam
Tuy cùng mang ý nghĩa là lễ cúng tiễn ông Công ông Táo về chầu Ngọc Hoàng để báo cáo tình hình trong năm của gia chủ, nhưng thời điểm cúng và lễ vật cúng ở các vùng miền lại có những khác biệt thú vị.
Mâm lễ cúng ông Công ông Táo của người miền Bắc. Ảnh: Vietnam+

Mâm lễ cúng ông Công ông Táo của người miền Bắc. Ảnh: Vietnam+

Lễ cúng ông Công, ông Táo vào ngày 23 tháng Chạp được coi là lễ quan trọng mở đầu cho Tết Nguyên đán của người Việt.

Theo truyền thuyết, vào ngày này, ông Công ông Táo sẽ cưỡi cá chép lên Trời để báo cáo với Ngọc Hoàng Thượng đế về những chuyện đã xảy ra trong năm qua của gia chủ để luận công thưởng, phạt.

Do đó, trong quan niệm của người Việt, ba vị Thần Táo (hay vua Bếp) sẽ định đoạt cát hung, phước đức cho gia đình. Tất nhiên, phước đức này đến từ việc làm đúng đạo lý của gia chủ và những người trong nhà.

Với mong muốn Thần Bếp sẽ “phù hộ” cho gia đình mình được nhiều may mắn nên các gia đình thường dọn dẹp nhà cửa, bếp núc thật sạch sẽ và làm một mâm cơm tiễn ông Công, ông Táo lên chầu trời một cách trang trọng.

Tùy theo phong tục vùng miền mà nghi lễ cúng ông Công, ông Táo giữa 3 miền Bắc-Trung-Nam có những sự khác biệt nhất định nhưng đều có điểm tương đồng thể hiện tấm lòng thành kính của gia chủ đối với vị thần cai quản việc phúc đức trong nhà.

Miền Bắc

Người miền Bắc thường cúng ông Công ông Táo từ khá sớm, các gia đình phần lớn đều chuẩn bị mâm cỗ làm lễ từ khoảng 20 tháng Chạp và muộn nhất là vào trưa 23 tháng Chạp.

Sở dĩ không nhiều nơi làm lễ cúng sau khoảng thời gian này là bởi dân gian quan niệm sau 12 giờ trưa ngày 23 là các Táo lên chầu trời nên không còn ở dương gian để nhận lễ được.

Lễ vật cúng ông Công ông Táo của người miền Bắc sẽ gồm ba bộ mã, trong đó 2 bộ là dành cho hai Táo ông, 1 bộ dành cho Táo bà. Mũ của Táo ông thì có hai cánh chuồn, mũ của Táo bà không có cánh chuồn. Ngoài ra, còn có các loại vàng mã khác cùng hương, hoa, oản, quả, cau, trầu. Những đồ vàng mã sẽ được hóa sau lễ cúng.

Mâm cơm cúng ông Công ông Táo là các món ăn truyền thống của người miền Bắc như xôi, gà, giò, chả, canh măng, nem... Ở nhiều địa phương của Bắc bộ còn cúng xôi chè, thường là chè bà cốt, nấu bằng nếp cái, xôi vò, đường nâu và gừng.

Một điểm đặc trưng văn hóa khác biệt của miền Bắc đối với miền Trung và miền Nam là phần lớn các gia đình thường dùng cá chép để làm đồ cúng lễ ông Công, ông Táo.

Các gia đình có thể cúng cá chép sống hoặc cá chép giấy với số lượng khác nhau. Cá chép sống được đặt cạnh mâm lễ vật, sau khi lễ xong thì được đem thả phóng sinh ở ao hồ, sông suối gần nhà với ý nghĩa cá chép hoá rồng, làm phương tiện đưa các Táo trở về thiên đình.

Bên cạnh đó, việc phóng sinh cá chép vào ngày này còn thể hiện tấm lòng nhân hậu và đức độ của gia chủ.

Miền Trung

Phong tục cúng ông Công ông Táo ở miền Trung được cho là cầu kỳ nhất trong 3 miền.

Lễ tiễn Táo Quân về trời thường được cúng vào đúng ngày 23 tháng Chạp. Trước đó, gia chủ sẽ thay cát mới trong bát hương và lau dọn bàn thờ ông Táo sạch sẽ.

Thay vì cúng cá chép như miền Bắc, người miền Trung thường cúng một con ngựa bằng giấy có đủ bộ yên cương.

Ngoài ra, trong mâm cỗ cúng còn phải có cá thu hoặc cá ngừ, hoa tươi, trái cây và đặc biệt là bộ tượng Táo quân cùng bộ tượng Táo quân mới đặt cạnh nhau.

Tượng ông Công ông Táo bằng đất nung sẽ được người miền Trung rước bày trên bàn thờ bếp. Ảnh: Hồ Cầu/TTXVN

Tượng ông Công ông Táo bằng đất nung sẽ được người miền Trung rước bày trên bàn thờ bếp. Ảnh: Hồ Cầu/TTXVN

Một số vùng như Huế và Hội An có tục dựng cây nêu trước nhà hay sân đình vào sáng ngày 23 tháng Chạp để xua đuổi ma quỷ khi các ông Táo “đi vắng” và làm lễ hạ cây nêu vào mùng 7 tháng Giêng.

Sau khi cúng xong, gia chủ sẽ hạ tượng ba ông Táo cũ bằng đất nung trên bàn thờ bếp xuống và rước tượng ba ông Táo mới lên bàn thờ để bắt đầu một năm làm việc tiếp theo. Tượng các ông Táo cũ sẽ được đặt cạnh các am miếu ở đầu xóm hay ở dưới gốc cây cổ thụ ở ngã ba đường.

Miền Nam

Theo phong tục của người miền Nam xưa thì có nhiều điều khác biệt so với cách cúng ngày nay. Các gia đình thường cúng Táo quân vào buổi đêm, trong khoảng thời gian từ 20 giờ đến 23 giờ ngày 23 tháng Chạp.

Người miền Nam quan niệm rằng lễ cúng ông Táo chỉ được thực hiện vào cuối ngày, khi cả gia đình đã dùng xong bữa tối, lúc này không phải dùng đến bếp núc để nấu nướng, không phiền đến các Táo thì mới là lúc thực hiện nghi lễ tiễn Táo quân lên chầu trời.

Tuy nhiên, do có sự giao thoa văn hóa nên thời gian cúng và mâm cỗ cúng ông Táo của người miền Nam ít nhiều có sự thay đổi. Nhiều nhà làm lễ tiễn ông Táo từ sáng sớm 23 tháng Chạp tại khu vực đặt bếp nấu.

Mâm cỗ cúng ngoài những món mặn chủ đạo như nem, giò, bánh chưng, hành muối, gà luộc... còn có thêm những chén chè trôi nước, đĩa kẹo được làm từ mè đen và đậu phộng,

Bộ vàng mã "cò bay ngựa chạy" được người Nam Bộ dâng cúng trong lễ tiễn Táo quân về chầu trời vào ngày 23 tháng Chạp.

Bộ vàng mã "cò bay ngựa chạy" được người Nam Bộ dâng cúng trong lễ tiễn Táo quân về chầu trời vào ngày 23 tháng Chạp.

Lễ vật cúng ngoài nhang đèn, 3 chum nước nhỏ, đặc biệt phải có bộ "cò bay, ngựa chạy" dùng để hóa sau khi xong lễ.

Bộ "cò bay, ngựa chạy" là những tấm giấy vàng mã in hình một con ngựa đang phi nước đại và một con cò với đôi cánh dang rộng, không có khung tre và gồm 2 phần khác nhau, một phần dùng trong lễ cúng tiễn và một phần dùng trong lễ rước ông Táo trở về gia chủ vào ngày 30 Tết.

Theo sách “Đặc khảo về Tín ngưỡng thờ Gia thần,” người dân Nam Bộ dùng bộ giấy "cò bay ngựa chạy" theo ý nghĩa ngựa chở Ông Táo đi đường bộ rồi cò chở Ông Táo bay về Trời.

Tục dùng ngựa và cò làm vật cưỡi trong miền Nam bắt nguồn từ nghi thức "xá mã, xá hạc" theo nghi thức của Đạo giáo và của Phật giáo. Đây là nghi thức được tiến hành sau cùng trong các buổi cúng tế. Người ta gom tất cả các tờ sớ nhét vào ngựa giấy và hạc giấy để sẵn trong lễ cúng rồi đem đốt với ý nghĩa nhờ ngựa và hạc mang sớ đến những nơi cầu cúng trong Tam giới.

Có thể bạn quan tâm

Một thời sưu tầm văn nghệ dân gian

Một thời sưu tầm văn nghệ dân gian

(GLO)- Tôi sinh hoạt cùng anh chị em văn nghệ sĩ ở Gia Lai-Kon Tum từ những năm cuối thập niên tám mươi của thế kỷ trước. Khi ấy, phong trào nghiên cứu, sưu tầm văn hóa dân gian (Folklore) đang rộ lên. Tôi tự cảm thấy đây là lĩnh vực cũng cần tìm hiểu và có trách nhiệm với nơi mình đang sống.
Lễ cúng rụng rốn của người Bahnar

Lễ cúng rụng rốn của người Bahnar

(GLO)- Lễ cúng rụng rốn (Et tuh klok) là nghi lễ đầu tiên trong vòng đời của mỗi người Bahnar. Không chỉ là cúng tạ ơn, mong muốn các thần linh che chở, bảo vệ đứa trẻ khỏe mạnh, mà lễ cúng còn là sự xác nhận đứa bé chính thức trở thành thành viên trong gia đình, dòng tộc và cộng đồng.
Ché quý của người Jrai

Ché quý của người Jrai

(GLO)- Người Jrai ở Krông Pa (tỉnh Gia Lai) còn lưu giữ nhiều loại ché (ghè) rất giá trị. Bước vào một ngôi nhà dài, quan sát vị trí, số lượng các loại ché, chúng ta có thể đánh giá mức độ giàu có của chủ nhân.
Người dành trọn tình yêu với văn hóa Jrai

Người dành trọn tình yêu với văn hóa Jrai

(GLO)- Bằng tình yêu và niềm tự hào về nét đẹp văn hóa truyền thống của dân tộc mình, ông Ak (80 tuổi, làng Chuét 2, phường Thắng Lợi, TP. Pleiku) đã dành trọn cuộc đời để bảo tồn văn hóa cồng chiêng, đan lát và chế tác nhạc cụ dân tộc với mong muốn lưu giữ cho thế hệ mai sau.
Những người “giữ lửa” dân ca Jrai

Những người “giữ lửa” dân ca Jrai

(GLO)- Với người Jrai, hát dân ca là món ăn tinh thần không thể thiếu trong đời sống sinh hoạt. Vì vậy, những người biết hát dân ca luôn quan tâm tới việc bảo tồn, lưu giữ và khơi gợi niềm đam mê cho thế hệ trẻ để góp phần bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc mình.