70 năm chiến thắng Điện Biên Phủ:

Ở lại dựng Điện Biên - Kỳ 1: Bác bảo đi là đi

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
Ở các địa phương trong cả nước, chúng ta quen gọi đơn vị hành chính tự quản là thôn, làng, bản (trực thuộc xã, phường). Thế nhưng ở Tây Bắc và nhất là tỉnh Điện Biên, nhiều địa bàn được gọi là đội thay cho tên gọi thông thường "thôn", "bản", "làng".

Bà con địa phương bảo đó là nơi sinh sống của những người lính dưới xuôi, sau chiến dịch Điện Biên Phủ đã ở lại lập nghiệp - xây dựng Tây Bắc và nơi ấy trở thành quê hương thứ hai của họ.

Đồng bào Điện Biên đón bộ đội Sư đoàn 316 trở lại xây dựng chiến trường xưa

Đồng bào Điện Biên đón bộ đội Sư đoàn 316 trở lại xây dựng chiến trường xưa

Chúng tôi đến đội 17A (xã Thanh Xương, H.Điện Biên, tỉnh Điện Biên) tìm cựu chiến binh Nguyễn Văn Kỷ. Cứ nghĩ sẽ phải ngồi cạnh giường nghe nhân chứng kể chuyện, nhưng không ngờ người lính già 94 tuổi vẫn đi lại phăm phăm, nói cười sang sảng và vẫn tinh tường những hồi ức sau 70 năm.

"Cố khổ thêm vài năm nữa"

Sinh năm 1932 ở xã Tiên Dược (H.Sóc Sơn, TP.Hà Nội), đầu năm 1952, chàng thanh niên Nguyễn Văn Kỷ đi bộ cả tuần vượt dãy Tam Đảo, nhập ngũ Đại đoàn 316 Bông Lau (nay là Sư đoàn 316, Quân khu 2).

"Chúng tôi được phát 2 bộ quân phục viện trợ của Trung Quốc và Tiệp Khắc, rộng thùng thình, vải mỏng dính. Mũ, giày dép không có, nên anh nào có gì đi nấy. Cả đại đội có gần chục khẩu súng, đủ các chủng loại, xuất xứ. Ăn uống thì thiếu thốn. Ở đơn vị thì ăn ngô. Đi huấn luyện dã ngoại hoặc chiến đấu thì được phát mỗi ngày một bát gạo rang", ông Kỷ nhớ lại và cười: "Khổ vậy nhưng không anh nào đào ngũ!"…

Ông Nguyễn Văn Kỷ (đội 17A, xã Thanh Hưng, H.Điện Biên) và vật lưu niệm của Ban liên lạc Trung đoàn 176 - Nông trường quốc doanh Điện Biên tặng năm 2014

Ông Nguyễn Văn Kỷ (đội 17A, xã Thanh Hưng, H.Điện Biên) và vật lưu niệm của Ban liên lạc Trung đoàn 176 - Nông trường quốc doanh Điện Biên tặng năm 2014

Ngày trở lại, chiến trường Điện Biên Phủ là bãi hoang vu, cây cối um tùm, ngổn ngang bom đạn, hầm hào, dây thép gai… Chúng tôi phục hoang đất, phải đi từng bước theo sát chân bộ đội công binh dò phá bom mìn. Vừa sản xuất, vừa khắc phục hạn hán. Những người lính lại đổ mồ hôi, nước mắt và cả xương máu. Nhiều người mang thương tật vĩnh viễn để hồi sinh cánh đồng Mường Thanh…

Ông Nguyễn Khắc Kế, 90 tuổi, đang ở xã Thanh Hưng, H.Điện Biên; nguyên chiến sĩ Tiểu đoàn 16, Trung đoàn 176, Sư đoàn 316

Tham gia chiến dịch Tây Bắc và trực tiếp chiến đấu ở chiến trường Điện Biên Phủ, ông Kỷ là người duy nhất sống sót của trung đội bộc phá (thuộc Đại đội 1, Tiểu đoàn 249, Trung đoàn 174, Sư đoàn 316), nên sau ngày 7.5.1954, bố mẹ ông nằng nặc bắt về quê lấy vợ.

"Rất may là tôi được ở lại làm nhiệm vụ thu dọn chiến trường và phục vụ đoàn quay phim của đạo diễn Liên Xô Roman Karmen (1906 - 1978), sau đó về xuôi làm nhiệm vụ chống cưỡng ép giáo dân di cư vào Nam, nên mới… tạm thoát", ông Kỷ kể.

Ông kể thêm đầu năm 1958 ông chuyển sang đại đội vận tải (Trung đoàn 176, Sư đoàn 316), đóng quân ở Bất Bạt, Sơn Tây (nay là H.Ba Vì, TP.Hà Nội). Ngày 10.3.1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đại tướng Võ Nguyên Giáp lên thăm, động viên bộ đội Sư đoàn 316. Kết thúc buổi nói chuyện, Chủ tịch Hồ Chí Minh dặn dò: "Hiện nay quân đội ta có 2 nhiệm vụ chính. Một là xây dựng quân đội hùng mạnh, sẵn sàng chiến đấu. Hai là tăng gia sản xuất cùng với toàn dân để tiến dần lên chủ nghĩa xã hội. Bác thay mặt Trung ương cử đơn vị các chú trở lại Điện Biên, xây dựng đất Điện Biên giàu đẹp cho đất nước".

"Nói thật là lúc ấy chẳng ai muốn lên, gần chục năm kháng chiến gian khổ, đánh nhau liên miên, có những anh chưa được về nhà, chỉ mong phục viên về quê lấy vợ, cày ruộng. Nhưng kỷ luật quân đội lúc ấy rất nghiêm, chỉ huy từ trên xuống dưới kèm sát, liên tục động viên. Anh em bảo nhau 9 năm kháng chiến còn chịu được, cố chịu thêm mấy năm nữa. Bác bảo đi là đi", ông Kỷ hồi tưởng.

Gỡ mìn, nhặt lựu đạn

Ngày 18.3.1958, Trung đoàn 176 chính thức rời Sơn Tây, hành quân lên Điện Biên. Đại đội vận tải 17 của ông Kỷ chở bộ phận hậu cần đi trước nấu nướng, bố trí chỗ ăn ngủ cho toàn bộ đội hình hành quân. Sau gần một tháng hành quân liên tục, ngày 11.4.1958, Trung đoàn 176 có mặt tại Điện Biên và bắt tay xây dựng doanh trại, tập trung phát hoang để kịp sản xuất vụ mùa và chuẩn bị mọi điều kiện cần thiết cho việc thành lập nông trường quân đội.

Cánh đồng Mường Thanh hôm nay

Cánh đồng Mường Thanh hôm nay

Ông Hoàng Văn Đáp (91 tuổi, đang sống ở xã Thanh Yên, H.Điện Biên) nhớ về thời điểm quay lại chiến trường Điện Biên Phủ cùng một số đồng đội ở Trung đoàn 174 (Sư đoàn 316): "Vẫn hành quân theo đường cũ, qua những địa danh cũ, vẫn đi bộ mang gạo nước…, chỉ khác là không phải đi đêm. Từ Him Lam trở vào toàn là rừng rú lau sậy, không có cả đường mòn. Chỉ huy cắm đất giao cho từng đại đội và phân công từng việc: dựng nhà, làm đường, lấp hầm hào, gỡ bom mìn… Cứ buổi chiều là mang hết đạn, lựu đạn, bom mìn gỡ được trong ngày về cho công binh ném xuống cái hố to và châm lửa đốt hoặc kích nổ ầm ầm đến đêm".

"Đảng viên đi trước, làng nước theo sau"

Ông Đoàn Văn Chi (94 tuổi, đang ở xã Thanh Luông, H.Điện Biên) kể ngày 14.4.1958 tại Mường Thanh, Đảng ủy Sư đoàn 316 họp và giao nhiệm vụ cho 3 đơn vị trực thuộc: Trung đoàn 174 thường trực sẵn sàng chiến đấu, Trung đoàn 98 làm đường Tuần Giáo - Điện Biên và Trung đoàn 176 chuyển sang sản xuất, xây dựng Nông trường quân đội Điện Biên (gọi tắt là nông trường). Ngày 8.5.1958, Trung đoàn 176 tổ chức lễ ra mắt nông trường, với 1.954 cán bộ chiến sĩ, thuộc 3 cơ quan (tham mưu, chính trị, hậu cần), 2 trung đội trinh sát và vận tải, 14 đại đội.

Các cựu chiến binh lên lại chiến trường xưa và thắp hương tại đền thờ liệt sĩ chiến trường Điện Biên Phủ, tháng 4.2024

Các cựu chiến binh lên lại chiến trường xưa và thắp hương tại đền thờ liệt sĩ chiến trường Điện Biên Phủ, tháng 4.2024

Mỗi đơn vị của Trung đoàn 176 chuyển thành đội sản xuất (gọi là C), được bố trí xen kẽ ở các xã, bản thuộc khu vực lòng chảo Điện Biên và 2 đại đội được bố trí ở khu vực Mường Ảng. Phía bắc TP.Điện Biên Phủ ngày nay là C13, C7, C1; phía đông thành phố (vị trí Trường Chính trị tỉnh Điện Biên) là C8; bên sông Nậm Rốm là C12, C11, C10, C6, C5; trung đoàn bộ ở bản Bom La (xã Thanh Xương, H.Điện Biên); xung quanh lòng chảo Điện Biên có C7, C4 (nay thuộc xã Thanh Hưng)…

"Thời gian đầu, có đơn vị hơn 1/3 quân số cáo ốm không đi làm. Chúng tôi phải động viên nhau, tự nhủ: đảng viên đi trước. Thời kỳ ấy, anh nào vượt qua được là tôi luyện phẩm chất quân nhân", ông Chi nhớ lại vậy và kể: "Khi Đại tướng Võ Nguyên Giáp lên thăm nông trường và hỏi thăm đời sống, một số người kể khổ. Đại tướng chỉ tay: "Các đồng chí nhìn đồi A1 kìa. Đồng đội mình hy sinh trên đấy biết bao nhiêu". Tất cả mọi người đều im lặng…". (còn tiếp)

Ngày 8.5.1958, Nông trường quân đội Điện Biên (trực thuộc Bộ Tổng tham mưu QĐNDVN) được thành lập, gồm 1.954 cán bộ, chiến sĩ của Trung đoàn 176. Nhiệm vụ của nông trường là vừa huấn luyện sẵn sàng chiến đấu, vừa phá dỡ bom mìn, khai hoang cải tạo đồng ruộng để phát triển sản xuất, ổn định đời sống.

Ngày 22.12.1960, Nông trường quân đội Điện Biên chuyển thành Nông trường quốc doanh Điện Biên, trực thuộc Bộ Nông trường (nay là Bộ NN-PTNT), làm nhiệm vụ tiếp tục khai hoang, mở rộng diện tích đất để sản xuất lương thực, thực phẩm. Giai đoạn 1965 - 1969, nông trường vừa tổ chức sản xuất vừa sẵn sàng chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của Mỹ.

Năm 1969, Bộ Nông trường chuyển giao Nông trường quốc doanh Điện Biên cho tỉnh Lai Châu (cũ) quản lý, và năm 1994 được chuyển đổi thành Xí nghiệp cây công nghiệp Điện Biên. Năm 2004 chuyển đổi thành Công ty TNHH nhà nước một thành viên cây công nghiệp Điện Biên và từ năm 2008 đến nay chuyển đổi thành Công ty cổ phần chế biến nông sản Điện Biên (trụ sở tại TP.Điện Biên Phủ).

(Nguồn: UBND tỉnh Điện Biên)

Có thể bạn quan tâm

Dìu dặt Kon Chênh

Dìu dặt Kon Chênh

Dìu dặt mấy mươi năm giữ lấy vốn liếng Mơ Nâm trên chốn chênh vênh này, lão nghệ nhân đã có thể yên tâm khi văn hóa của làng mình được mọi người biết đến, nhớ đến, và đổi thay cuộc sống nhờ những điều nho nhỏ.

Đề án 06: Động lực xây dựng tỉnh nhà hiện đại, văn minh - Kỳ cuối: Tháo gỡ điểm nghẽn để về đích đúng tiến độ

Đề án 06: Động lực xây dựng Gia Lai hiện đại, văn minh - Kỳ cuối: Tháo gỡ điểm nghẽn để về đích đúng tiến độ

(GLO)- Triển khai Đề án 06 về phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022-2025, tầm nhìn đến năm 2030, các cơ quan, ban, ngành, đơn vị phối hợp chặt chẽ để tháo gỡ những điểm nghẽn, khó khăn, bất cập nhằm thực hiện đúng tiến độ.

Pháo đài Đồng Đăng - kỳ 5: Sức sống thị trấn miền biên viễn

Pháo đài Đồng Đăng - kỳ 5: Sức sống thị trấn miền biên viễn

Tự hào là mảnh đất “phên dậu” của đất nước, nơi có các di tích lịch sử oai hùng như: Pháo đài Đồng Đăng, cửa khẩu Hữu Nghị cùng các danh lam thắng cảnh nổi tiếng, thị trấn Đồng Đăng (huyện Cao Lộc, Lạng Sơn) trỗi mình sau cuộc chiến biên giới 1979, trở thành điểm đến của du khách muôn phương.

Nhân sự kiện pháo đài Đồng Đăng được công nhận di tích lịch sử quốc gia - Kỳ 3: Chứng tích bi hùng

Nhân sự kiện pháo đài Đồng Đăng được công nhận di tích lịch sử quốc gia - Kỳ 3: Chứng tích bi hùng

Đối với cư dân sống ở thị trấn miền biên viễn Đồng Đăng, những ngày tháng đối đầu với quân xâm lược tháng 2/1979 giống như những thước phim quay chậm bi thương mà hào hùng. Họ đã sống, chiến đấu cùng bộ đội hiên ngang như thành đồng lũy thép ngay tuyến đầu Tổ quốc.

Tình yêu từ chiến hào: Bất tử Pò Hèn

Tình yêu từ chiến hào: Bất tử Pò Hèn

Trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc, rất nhiều người lính đã không chỉ cống hiến xương máu, bảo vệ từng tấc đất biên cương, mà còn coi nơi mình chiến đấu là quê hương thứ 2 để ươm mầm tình yêu, cho hạnh phúc hôm nay.

Ở góc Tây Nam

Ở góc Tây Nam

Bà chủ homestay đầu tiên trên đảo Hòn Đốc (Kiên Giang) - Phương Thảo - kể hồi mới theo chồng ra đảo, ở đây cái gì cũng thiếu. Nước ngọt mỗi ngày đều phải chờ xà-lan chở từ Hà Tiên ra, mỗi nhà xách theo một can 30l ra cầu cảng nhận phát nước.

Người 'dò đường' cho lính 'mũ nồi xanh'

Người 'dò đường' cho lính 'mũ nồi xanh'

…Từ Nam Sudan, đất nước vẫn còn non trẻ và đầy rẫy bất ổn này, chúng tôi thấy những gam màu ảm đạm: màu vàng của sa mạc, màu nâu của bùn đất, màu đen của những khẩu súng và đặc biệt là hình ảnh vô cùng đáng thương của những đứa trẻ chăn bò.

"Đã có thầy ở đây..."

"Đã có thầy ở đây..."

Có thầy ở đây, trái tim trẻ thơ được sưởi ấm giữa những giông gió cuộc đời. Có cô ở đây, trẻ thơ vững bước trên hành trình gom nhặt kiến thức. Có thầy, cô ở đây, các em không chỉ học cách viết những con chữ mà còn học cách sống, cách yêu thương, cách đứng dậy sau vấp ngã…

Đổi thay ở làng phong Quy Hòa

Đổi thay ở làng phong Quy Hòa

Làng Quy Hòa, ngôi làng nhỏ nằm nép mình bên bờ biển Quy Nhơn, là nơi trú ngụ cho những bệnh nhân phong trong nhiều thập kỷ. Trải qua nhiều biến động, cùng với tiến bộ của y học, căn bệnh nan y ngày nào đã không còn là nỗi ám ảnh.

Người gieo ánh sáng yêu thương

Người gieo ánh sáng yêu thương

Bị khiếm thị từ nhỏ, song Lã Minh Trường, sinh năm 2001, nguyên Chủ nhiệm Câu lạc bộ Sinh viên khuyết tật TP Hà Nội, đã vươn lên trong học tập, thi đấu thể thao và tích cực hoạt động công tác xã hội trong 5 năm qua.