Những người "giữ lửa" buôn làng

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

Có một đêm lửa rừng dưới chân núi mẹ Lang Bian (Lạc Dương, Lâm Đồng), tôi đã được nghe nhạc sĩ Krajan Plin hát, bài hát do chính anh sáng tác với tên gọi “Giữ ấm bếp hồng”.

Người đàn ông Cơ Ho ấy đã rút ruột rút gan thành những giai điệu lan tỏa tình yêu cao nguyên: “Kìa trông vầng trăng trên cao. Kìa trông ngàn sao lung linh. Dẫu có bão giông, thác lũ thét gào. Ta hãy cùng nhau giữ ấm bếp hồng…”. Và, những tháng năm qua, Krajan Plin đã cùng biết bao con người đêm ngày tận tụy, dốc hết trí lực cho bếp lửa cao nguyên mãi ấm áp ngọn lửa văn hóa ông bà truyền lại…   

Với các tộc người bản địa Tây Nguyên, bếp lửa trong mỗi mái nhà sàn hay dưới bóng cây nêu giữa sân buôn làng đã trở thành một biểu tượng của sự sống, lay thức mỗi trái tim về nguồn cội và tình cảm cố kết cộng đồng. “Giữ ấm bếp hồng” chính là giữ mối dây kết nối thế hệ, là tâm huyết trao truyền những giá trị văn hóa của tổ tiên đến với con cháu mai sau. Trong những chuyến điền dã, tôi đã thấy, đã gặp, đã trò chuyện với rất nhiều người “giữ lửa” giữa buôn làng. Nhờ họ mà sợi dây kết nối cộng đồng bớt phần lơi lỏng; nhờ họ mà nhịp cồng chiêng, điệu dân ca vẫn ngân, bước chân vòng xoang vẫn rạo rực bên bếp lửa trong những mùa lễ hội; nhờ họ mà ngôn ngữ tộc người vẫn được lưu giữ để ông bà, cha mẹ vẫn có thể giao tiếp và kể cho con cháu nghe những câu chuyện từ ngày xửa ngày xưa...

 

Nghệ nhân ưu tú Touneh Ma Bio (thứ hai từ trái sang) và các học trò.
Nghệ nhân ưu tú Touneh Ma Bio (thứ hai từ trái sang) và các học trò.


Nhạc sĩ Krajan Plin tôi vừa nhắc trên đây là một trong những người như vậy. Người đàn ông Cơ Ho này chưa bao giờ nguôi niềm khắc khoải với văn hóa tộc người.

Anh lo lắng, bất an với những giá trị truyền thống đang có nguy cơ nhạt phai, dần rời bỏ cộng đồng. Anh cũng là người cố gắng từng chút một góp sức cùng mọi người níu giữ những gì còn có thể cứu vãn. Âm nhạc của Plin là thứ giai điệu chắt lọc từ thanh âm hồn cốt của núi rừng, là tiếng gọi tha thiết đồng bào trở về với cội nguồn văn hóa tộc người.

Hơn 20 năm trước, nhạc sĩ Krajan Plin cùng những người đồng tộc tâm huyết đã thành lập ban nhạc “Những người bạn Lang Bian” với khao khát được làm cái “bếp lửa” sưởi ấm những buôn làng dưới chân núi Mẹ bằng những giai điệu cất lên từ thanh âm của núi rừng sâu thẳm.

Đó cũng chính là cái “tổ” ban đầu dưỡng nuôi, trưởng thành những giọng hát như Liênghót Uyên Ly, Cil Glè, Panting Sally; rồi hai dì cháu cùng là ca sĩ Krajan Út, Cil Pơi từng lọt vào vòng chung kết giải Sao Mai 2003. Đặc biệt, Krajan Plin cũng là người thầy dạy dỗ và viết ca khúc “Lang Bian S’ning” (Nghĩ về Lang Bian) cho cô học trò Bonuer Trinh hát đã giúp nữ ca sĩ này đoạt giải Nhất Tiếng hát Truyền hình TP. Hồ Chí Minh.

Đến bây giờ, Plin vẫn từng ngày cặm cụi sưu tầm, ghi chép những câu luật tục, những lời hát dân ca mà tổ tiên truyền lại. Người cháu của Plin, nhạc sĩ Krajan Dick cũng chung niềm đồng cảm với cậu của mình trong công việc “giữ lửa”.

Nói là làm, vừa rời nhiệm vụ Phó Trưởng đoàn Nghệ thuật Lâm Đồng, Dick trở về với buôn làng nơi chân núi, cùng Plin và những người đồng tộc sưu tầm, ký âm, ký tự nhằm bảo tồn những bài chiêng, những điệu ca cổ. Anh cũng mang những giá trị đó đến với lớp trẻ cộng đồng bằng những buổi biểu diễn, những cuộc giao lưu, trao đổi và cả lan tỏa qua mạng xã hội. Tôi đã cảm nhận rõ nét điều đó khi chứng kiến nữ nghệ nhân cồng chiêng Cil Ka, một người cùng huyết thống với Plin và Dick dạy các cô gái trẻ như Cil Gluyến, Panting Benziên những điệu chiêng cổ và bài hát dân ca…

* * *

 

 Bên ché rượu cần. Ảnh: Hà Hữu Nết
Bên ché rượu cần. Ảnh: Hà Hữu Nết


Bây giờ ông K’Điệp được bầu là người có uy tín ở xã Tam Bố (Di Linh, Lâm Đồng), nhưng mười mấy năm trước ông công tác ở Đài Phát thanh - Truyền hình tỉnh Lâm Đồng. Nghỉ hưu trở về sống với buôn làng Cơ Ho của mình nhưng K’Điệp chưa một ngày nghỉ ngơi việc làm người giữ và truyền “lửa”.

Từng đi nhiều, tiếp xúc nhiều, ông càng hiểu hơn những vốn quý văn hóa tộc người, đặc biệt là tiếng nói, trang phục, các nghi lễ, lễ hội, dân ca, dân nhạc, dân vũ. Từ năm 2010, được mời tham gia biên soạn cuốn tài liệu “Dạy và học tiếng Cơ Ho”, ông K’Điệp đã dốc hết vốn liếng ngôn ngữ mà ông bà cho, những tinh túy mà ông tích lũy được với mong muốn gìn giữ và phát triển ngôn ngữ của dân tộc mình. Với sự chung tay của ông và những người tâm huyết, cuốn tài liệu đã được đưa vào giảng dạy; giúp nhiều cán bộ, công chức và nhiều người trẻ tiếp cận với ngôn ngữ của một tộc người có tỷ lệ dân số đông ở tỉnh Lâm Đồng. Nhắc tới câu chuyện văn hóa bản địa, ông K’Điệp phấn chấn khác thường. Ông kể với chúng tôi về những lúc tỉ tê trò chuyện với các bậc cao niên trong xã để nghe và ghi lại vô số câu chuyện từ kho tàng tri thức bản địa, rồi những buổi tham mưu với chính quyền và vận động đồng bào tham gia công tác bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa. Bởi tấm lòng đau đáu với tộc người, K’Điệp thường được mời nói chuyện về văn hóa truyền thống ở các trường học trong và ngoài xã. Ông coi việc được truyền ngọn lửa tình yêu và lan tỏa văn hóa truyền thống của dân tộc mình đến với mọi người, nhất là lớp trẻ, được họ lắng nghe, chia sẻ và trân trọng là điều hạnh phúc…

Cũng ở Di Linh, mười năm nay, được sự hỗ trợ của chính quyền và ngành văn hóa, các già làng và nghệ nhân đã mở 9 lớp truyền dạy cồng chiêng với 216 học viên là người trẻ trong buôn làng tham gia, trong đó có rất nhiều bạn nữ. Còn ở thị trấn Đinh Văn của huyện Lâm Hà, hàng chục năm qua, ngôi nhà của nghệ nhân Duôm Dai Bát như là trụ sở một câu lạc bộ, một không gian thu nhỏ của văn hóa Cơ Ho. Ông là người “cầm chịch” trong việc tổ chức, truyền dạy cho hàng trăm thanh niên địa phương về cồng chiêng, chế tác và sử dụng các nhạc cụ. Hai năm trước, người truyền lửa Duôm Dai Bát rời trần gian, có nhiều đội chiêng với hàng chục nghệ nhân trẻ do ông truyền dạy đã tấu lên những bài chiêng buồn tiễn đưa người thầy tâm huyết về với rừng Yàng…                                      

* * *

 

Ông Ya Loan trao đổi với nhà nghiên cứu Đặng Trọng Hộ về văn hóa và ngôn ngữ Chu Ru.
Ông Ya Loan trao đổi với nhà nghiên cứu Đặng Trọng Hộ về văn hóa và ngôn ngữ Chu Ru.


Dòng chảy thời gian tiếp nối, những tác động của đời sống hiện đại đang làm mờ phai dần những giá trị văn hóa cổ truyền. Bởi vậy, mỗi ý nghĩ, lời nói, việc làm góp phần níu giữ vốn quý tộc người đều đáng ghi nhận. Những già làng, trí thức, nghệ nhân luôn nhận trách nhiệm cao nhất, họ ngày đêm đau đáu với việc giữ gìn truyền thống. Tôi đã thấy ông Ya Loan dắt tay từng cháu nhỏ vào lớp dạy tiếng nói của dân tộc Chu Ru; thấy bà Ma Bio, bà Ma Tham hồi sinh những vũ điệu Tamya Ariya, T’rumpô, trống Pă ginăng hay kèn Lơkér bằng cách dạy cho con cháu của mình. Đi qua các buôn làng, tôi rất vui khi được chứng kiến những hình ảnh đời thường giản dị mà ý nghĩa: Đó có thể là người mẹ dân tộc Cơ Ho tên là Ha Boong ở buôn Bneur C (Lạc Dương) dạy những đứa con gái pha sợi dệt thổ cẩm; là người cha Chu Ru tên Tou Prông Dương ở Pró (Đơn Dương) dạy mấy đứa con trai thổi lửa nung gốm; là người chị Ka Uyên ở thị trấn Đinh Văn (Lâm Hà) đang truyền bí quyết ủ rượu cần cho mấy đứa em…                 

Như giai điệu của bài hát “Giữ ấm bếp hồng” của nhạc sĩ Krajan Plin, những già làng, trí thức, nghệ sĩ, nghệ nhân và cả những người dân trong mỗi làng, buôn đau đáu với văn hóa truyền thống là những người giữ và truyền “lửa”. Họ không phải là thần Prométe mang sứ mệnh cao cả thắp sáng tâm hồn và trí tuệ nhân loại, họ chỉ là những người bình thường sống giữa miền rừng núi, cần mẫn mỗi tháng ngày “thổi” những “ngọn lửa nhỏ” của tình yêu di sản tổ tiên làm ấm áp thêm cho cộng đồng thân thiết của mình và trao truyền tình yêu ấy cho thế hệ cháu con.



https://baodaklak.vn/van-hoa-du-lich-van-hoc-nghe-thuat/202112/nhung-nguoi-giu-lua-buon-lang-e2c2539/

Theo Uông Thái Biểu (baodaklak)

Có thể bạn quan tâm

Dìu dặt Kon Chênh

Dìu dặt Kon Chênh

Dìu dặt mấy mươi năm giữ lấy vốn liếng Mơ Nâm trên chốn chênh vênh này, lão nghệ nhân đã có thể yên tâm khi văn hóa của làng mình được mọi người biết đến, nhớ đến, và đổi thay cuộc sống nhờ những điều nho nhỏ.

Đề án 06: Động lực xây dựng tỉnh nhà hiện đại, văn minh - Kỳ cuối: Tháo gỡ điểm nghẽn để về đích đúng tiến độ

Đề án 06: Động lực xây dựng Gia Lai hiện đại, văn minh - Kỳ cuối: Tháo gỡ điểm nghẽn để về đích đúng tiến độ

(GLO)- Triển khai Đề án 06 về phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022-2025, tầm nhìn đến năm 2030, các cơ quan, ban, ngành, đơn vị phối hợp chặt chẽ để tháo gỡ những điểm nghẽn, khó khăn, bất cập nhằm thực hiện đúng tiến độ.

Pháo đài Đồng Đăng - kỳ 5: Sức sống thị trấn miền biên viễn

Pháo đài Đồng Đăng - kỳ 5: Sức sống thị trấn miền biên viễn

Tự hào là mảnh đất “phên dậu” của đất nước, nơi có các di tích lịch sử oai hùng như: Pháo đài Đồng Đăng, cửa khẩu Hữu Nghị cùng các danh lam thắng cảnh nổi tiếng, thị trấn Đồng Đăng (huyện Cao Lộc, Lạng Sơn) trỗi mình sau cuộc chiến biên giới 1979, trở thành điểm đến của du khách muôn phương.

Nhân sự kiện pháo đài Đồng Đăng được công nhận di tích lịch sử quốc gia - Kỳ 3: Chứng tích bi hùng

Nhân sự kiện pháo đài Đồng Đăng được công nhận di tích lịch sử quốc gia - Kỳ 3: Chứng tích bi hùng

Đối với cư dân sống ở thị trấn miền biên viễn Đồng Đăng, những ngày tháng đối đầu với quân xâm lược tháng 2/1979 giống như những thước phim quay chậm bi thương mà hào hùng. Họ đã sống, chiến đấu cùng bộ đội hiên ngang như thành đồng lũy thép ngay tuyến đầu Tổ quốc.

Tình yêu từ chiến hào: Bất tử Pò Hèn

Tình yêu từ chiến hào: Bất tử Pò Hèn

Trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc, rất nhiều người lính đã không chỉ cống hiến xương máu, bảo vệ từng tấc đất biên cương, mà còn coi nơi mình chiến đấu là quê hương thứ 2 để ươm mầm tình yêu, cho hạnh phúc hôm nay.

Ở góc Tây Nam

Ở góc Tây Nam

Bà chủ homestay đầu tiên trên đảo Hòn Đốc (Kiên Giang) - Phương Thảo - kể hồi mới theo chồng ra đảo, ở đây cái gì cũng thiếu. Nước ngọt mỗi ngày đều phải chờ xà-lan chở từ Hà Tiên ra, mỗi nhà xách theo một can 30l ra cầu cảng nhận phát nước.

Người 'dò đường' cho lính 'mũ nồi xanh'

Người 'dò đường' cho lính 'mũ nồi xanh'

…Từ Nam Sudan, đất nước vẫn còn non trẻ và đầy rẫy bất ổn này, chúng tôi thấy những gam màu ảm đạm: màu vàng của sa mạc, màu nâu của bùn đất, màu đen của những khẩu súng và đặc biệt là hình ảnh vô cùng đáng thương của những đứa trẻ chăn bò.

"Đã có thầy ở đây..."

"Đã có thầy ở đây..."

Có thầy ở đây, trái tim trẻ thơ được sưởi ấm giữa những giông gió cuộc đời. Có cô ở đây, trẻ thơ vững bước trên hành trình gom nhặt kiến thức. Có thầy, cô ở đây, các em không chỉ học cách viết những con chữ mà còn học cách sống, cách yêu thương, cách đứng dậy sau vấp ngã…

Đổi thay ở làng phong Quy Hòa

Đổi thay ở làng phong Quy Hòa

Làng Quy Hòa, ngôi làng nhỏ nằm nép mình bên bờ biển Quy Nhơn, là nơi trú ngụ cho những bệnh nhân phong trong nhiều thập kỷ. Trải qua nhiều biến động, cùng với tiến bộ của y học, căn bệnh nan y ngày nào đã không còn là nỗi ám ảnh.