Dòng chính chảy hướng Đông – Nam về phía chợ Khánh An, có tên khác là sông Bassac, hay sông Bát-Sắc, Ba-Thắc. Dòng phụ chảy theo hướng Tây – Nam, gọi là sông Bình Di, men theo biên giới giữa Việt Nam và Campuchia, ôm gần một nửa cù lao tả ngạn. Khi tới ngã ba Bắc Đai, sông Bình Di nhận thêm một lượng nước lớn từ phía Campuchia và được người dân gọi là sông Phú Hội, xuôi về đến vàm Vĩnh Hội Đông, nó lại có tên gọi khác là sông Châu Đốc.
1. Mùa nước lên, dọc theo các tuyến sông đầu nguồn, không khó bắt gặp những “bến cá” tấp nập xuồng ghe. Đó là những vựa cá được người dân xây cất ven sông để tiện việc thu mua thủy sản cũng như chuyên chở đi bán lại cho thương lái. Năm nào mấy chợ cá đó đông vui, nhộn nhịp bán mua là biết dân làm nghề hạ bạc bội thu.
Tôi đến “bến cá” gần ngã ba Bắc Đai thuộc huyện An Phú khi trời còn tờ mờ sáng, đã thấy hàng chục chiếc ghe đậu san sát nhau. Ghe này cân cá vừa xong là lập tức lui ra để ghe khác tấp vào. Cứ như thế, mỗi bến có gần hai chục nhân công nhưng làm việc luôn tay, người nào cũng mướt mồ hôi. Dù vậy, trong ánh sáng lúc rạng đông, tôi vẫn thấy vẻ hân hoan trên gương mặt của mỗi người.
Bán xong 120 ký cá linh, vừa lui ghe vừa đếm số tiền thu được sau một ngày đặt dớn, ông Út Lâm bảo rằng, năm nay nước lên nhiều vào đầu tháng Bảy âm lịch, sau đó hơi “chững” lại lúc cuối tháng. Tuy vậy, lượng cá cũng khá ổn định. Mỗi ngày trung bình ông đặt dớn được khoảng 100 ký, có ngày trúng nhiều được gần 200 ký. Dù giá cá linh bán làm cá mồi cho các vùng nuôi cá trê, cá tra chỉ ở mức 5.000 đồng/ ký, nhưng với ông bấy nhiêu đó cũng đủ tiền trang trải cuộc sống.
Mỗi năm, mùa khô thì vợ chồng ông canh tác mẫu ruộng phía sau nhà, hễ thấy nước đổ là lập tức chuẩn bị xuồng ghe, đăng dớn cho vụ đánh bắt. Nước chụp lên đồng là xuống dớn liền. Năm nay đã 60 tuổi nhưng nhìn ông Lâm vẫn rắn rỏi, nước da đen sạm vì dạn dày nắng gió, gương mặt góc cạnh với nụ cười hiền khô lúc nào cũng nở trên môi.
Vợ ông ngồi sau lái phụ họa thêm chuyện hai vợ chồng có nhà cửa gần đó nhưng mùa nước nổi thì thích ở trên ghe, thăm dớn, bán cá, nấu ăn, mọi việc đều làm lúc lênh đênh sóng nước. Gần bốn chục năm về chung sống với nhau, năm nào hai vợ chồng ông cũng làm nghề cá khi nước lên. Có năm giăng lưới, giăng câu, đặt lọp, đặt xà di, gần đây thì chuyển sang đặt dớn cá linh đầu mùa, nước lên chút thì chuyển qua giăng câu cho tới khi nước xuống. Ông bà có 4 người con thì tới 3 đứa theo nghề hạ bạc, chỉ một đứa đi làm công nhân trên Bình Dương. Dù cá mắm mấy năm nay có khi trúng khi mất, nhưng vợ chồng ông luôn tin là sẽ sống khỏe bằng nghề này. “Trời cho nhiều thì ăn nhiều, cho ít thì ăn ít nhưng chắc chắn không đói đâu mà sợ”, ông Lâm nói thế rồi cười thật lớn, nổ máy chạy ghe về phía cánh đồng biên.
2. Gần 6h sáng, mặt trời nhô lên đỏ rực phía Đông, quãng sông gần chợ Bắc Đai xuồng ghe ngày càng thêm tấp nập. Tiếng máy nổ xen lẫn với tiếng bạn hàng chốt giá, đọc số ký cá vừa cân, gọi nhân công gánh cá lên bờ vang động cả một khúc sông dài. Anh Trần Văn Tý mới 41 tuổi nhưng đã làm chủ một cơ sở thu mua cá với 15 nhân công. Anh cho biết mỗi ngày cơ sở anh thu vào khoảng ba tấn cá, chủ yếu là cá linh non. Số cá này một phần sẽ được bán lại cho các chợ đầu mối, còn đa số là xay ra bán làm mồi cho các vùng nuôi cá.
Anh Tý tâm sự: “Làm nghề này tuy có cực một chút vì phải thức khuya dậy sớm, gánh cá nặng nhọc nhưng thu nhập khá ổn. Mỗi mùa nước, cơ sở của anh lợi nhuận khoảng 200 triệu, lại giúp bà con trong xóm có công ăn việc làm”. Nói chuyện với tôi, anh Tý vẫn luôn tay xúc cá đổ vào máy xay. Ngoài gia đình anh Tý, trong xóm này còn có hơn chục cơ sở thu mua cá, dân làm nghề câu lưới muốn ghé bán chỗ nào thì ghé. Các cơ sở này cũng không cạnh tranh gì nhau bởi lượng xuồng ghe chở cá về mỗi ngày rất nhiều, bà con phải tự chia nhau ghé đều các bến để bán, vì dồn lại một chỗ thì chủ cân không kịp, chờ lâu cá chết sẽ mất giá.
Tôi hỏi anh Tý khu vực này chỉ mua cá, vậy các sản vật khác người ta sẽ bán ở đâu. Anh Tý chỉ tay về phía bờ sông đối diện, nơi có mấy chiếc ghe, vỏ lãi đang đậu, nói chỗ đó thu mua cua ốc và các thứ khác. Tôi liền đi qua cầu Nhơn Hội, tới bến sông nơi anh Tý chỉ. Đó là cơ sở thu mua thủy sản của gia đình ông Ba Phước. Khác với mấy cơ sở mua cá, chỗ ông Ba Phước không mướn nhân công mà hai vợ chồng ông và con cháu tự làm. Cái sàn nhà cao được trưng dụng làm chỗ để cân bàn, thùng xốp, bao tải và những thứ khác phục vụ cho việc mua bán. Bà Ba ngồi trên cái bàn gần đó với mấy cuốn tập ghi chép chi chít số liệu, cái máy tính nhỏ và chiếc điện thoại “cùi bắp” nhưng chuông reo liên tục.
Bà Ba Phước cho biết, mỗi ngày cơ sở của gia đình bà thu mua khoảng 2 tấn cua, 1,5 tấn ốc; còn lươn, chuột, ếch thì gom lại chừng một trăm ký. Cua ốc đa số sẽ được bán lại để người ta xay nhuyễn cho tôm ăn. Còn những loại cua lớn, ốc ngon, lươn, ếch, chuột sẽ bán cho các chợ đầu mối. Gia đình bà Ba đã làm công việc này 40 năm, mùa nước thì mua cua ốc là chính, còn mùa khô thì mua chuột, ếch, rắn, lươn nhiều hơn. Vùng đầu nguồn này sản vật phong phú lắm, mùa nào người ta cũng đánh bắt được, mình chỉ cần mua đừng ép giá, thanh toán tiền bạc sòng phẳng là bà con tin tưởng, có thứ gì cũng đem lại bán cho mình.
Khi tôi tới, có mấy chiếc vỏ lãi chở đầy cua cập bến. Hai đứa con bà nhảy xuống vác lên từng bao để cân, xong rồi đổ vào cái khay lớn để phân loại cua. Ông ba Phước và bốn đứa cháu đứng quây quanh cái khay, tay thoăn thoắt lùa cua theo từng kích cỡ vào những rãnh trên khay. Đó là cách phân loại “cua mồi” và “cua thịt” để tiện cho việc bán lại. Bà Ba thì ngồi trên bàn, ghi chép vào sổ rồi tính tiền trả cho người bán.
Ngồi chỗ thu mua của ông Ba Phước chừng một tiếng đồng hồ, tôi đếm được 18 chiếc ghe, vỏ lãi đến bán cua ốc. Chiếc nào ghé vô là cả nhà ông Ba làm thật nhanh để người dân còn tiếp tục đi đánh bắt. Những lúc rảnh rỗi hiếm hoi, ông Ba tranh thủ chỉ cho mấy đứa con cách phân loại cua thịt, cua mồi, cách phân biệt ốc bươu vàng và ốc lác, ốc đá. Bà Ba thì điện thoại cho thương lái, hỏi giá cả thủy sản thu mua bao nhiêu, bán ra bao nhiêu.
Tôi không ngờ ở một xóm nhỏ vùng biên vốn dĩ rất hẻo lánh này nhịp sống lại tất bật như thế. Đi dọc từ sông Bình Di xuống, không khó để bắt gặp những “bến sông vui”. Niềm vui của người dân khi đánh bắt cá đầy ghe chở về đây bán, niềm vui của những cơ sở thu mua khi vừa có thu nhập vừa tạo công ăn việc làm cho người thân, chòm xóm.
Mấy năm qua, nhiều tác động khiến cho nguồn nước đổ về miệt Cửu Long không ổn định. Có những năm mùa nước nổi không xuất hiện ở một số khu vực. Tình trạng bao đê thâm canh tăng vụ trên các cánh đồng vùng này cũng làm giảm đáng kể nguồn lợi thủy sản. Đã có những lo ngại về một miền Tây sẽ cạn kiệt cá tôm. Thế nhưng, sau những lần rong ruổi lên vùng Bắc Đai, Nhơn Hội hay Bình Di vào mùa nước nổi, nhìn thấy những “bến cá” tấp nập xuồng ghe, tôi vẫn tin rằng sản vật sông nước vẫn dồi dào, vẫn nuôi sống được những người dân gắn bó với nghề hạ bạc.
Theo Trương Chí Hùng (CANDO)