Nhớ món đậu rồng thời kháng chiến

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
(GLO)- Ngày nay, các nhà chuyên môn khuyến cáo mọi người nên hạn chế các loại thực phẩm nhiều chất béo, mà nên tăng cường ăn rau, củ, quả. Đây là những thực phẩm có lợi cho sức khỏe, thậm chí còn được cho là có thể giúp phòng ngừa bệnh ung thư. Thế nhưng trong thời kỳ kháng chiến, có được một bữa “cơm có thịt” là ước mơ của những người lính chúng tôi. Còn thực phẩm thường ngày trong bữa ăn “thức độn nhiều hơn cơm” của chúng tôi chủ yếu là rau, củ từ rừng và nương rẫy mà đơn vị tăng gia sản xuất được hoặc mua, đổi của bà con dân tộc thiểu số vùng căn cứ.
Ngoài các loại rau rừng như cải tàu bay, rau dớn, lá “bột ngọt”, lá mì gòn, măng le... thì còn có một loại quả được gọi là đậu rồng. Đậu rồng được bà con dân tộc thiểu số trồng quanh các rẫy lúa, trên các đống tro tàn sau dọn đốt rẫy khi hết mùa thu hoạch lúa theo lối canh tác độc canh, du canh. Cây đậu rồng vốn sống rất bền, từ hạt khô của vụ trước bong ra, chúng có thể mọc hoang khắp nơi trong những rẫy cũ. Đây là nguồn thực phẩm rất dồi dào để các anh chị nuôi quân chế biến phục vụ cho cán bộ, chiến sĩ những bữa cơm. Nhưng dù khéo tay chế biến cỡ nào thì mọi người cũng ngán vì phải ăn một loại rau suốt nhiều ngày. Ở Huyện ủy K8 (huyện An Khê cũ) trước những năm 1970 có chị Cẩn nuôi quân, không khéo tay lắm nhưng được cái chị rất tích cực trong việc tìm kiếm các loại rau có sẵn trong rừng, trên rẫy cũ của đồng bào Bahnar trong vùng căn cứ. Đậu rồng là một trong những loại rau chị hay tìm về, có lúc chị “thu hoạch” hàng gùi to, cả lá, quả non, hạt khô không bỏ một thứ nào.
 Cây đậu rồng. Ảnh: internet
Cây đậu rồng. Ảnh: internet
Quả đậu rồng rất dễ chế biến, từ luộc, xào, nấu canh, ăn sống... Với tôi, đậu rồng ăn sống là nỗi sợ hãi, nhưng với chú Bốn Đỗ (Nguyễn Xuân Đỗ) khi ấy là Ủy viên Ban Thường vụ Huyện ủy trực thì đậu rồng sống luôn là món khoái khẩu. Lúc đó, tôi nhớ ở quê mình-cũng là quê của chú Bốn Đỗ không thấy ai trồng loại đậu này, nhưng chú Bốn rất sành các cách ăn quả đậu rồng. Ông bảo, ước gì có được tí mắm nêm, mắm cái, mắm ruột mà chấm với đậu rồng thì tuyệt biết mấy. Với hạt đậu rồng khô, chú cũng bảo, nếu có ít đường, sữa mà nấu chè thì đó là loại chất bổ dưỡng chẳng gì sánh bằng... Nhưng mọi sự ước của chú cũng chỉ là ước thôi.
Hồi đó, những năm trước 1975, ở Huyện ủy K8 có lãnh đạo lớn hơn anh chị em chúng tôi nhiều năm cả về tuổi đời và thâm niên làm cách mạng. Tuổi họ tương đương nhau nhưng mỗi người một tính: chú Bốn Đỗ trầm lặng, ít nói, không nổi nóng bao giờ, trong bất cứ trường hợp nào; ngược lại, chú Hồ Ngọc Năm thì tính như... Trương Phi. Với cương vị Bí thư Huyện ủy kiêm Chính trị viên Huyện đội K8, chú Năm rất sâu sát và am hiểu tình hình địa phương. Khi tình hình căng thẳng, chú Năm chú tâm mảng quân sự hơn, nhiều trận phục kích, diệt tề, đột nhập vào ấp chiến lược, chú Năm trực tiếp chỉ huy; công việc phía Dân chính Đảng do chú Bốn Đỗ xử lý. Chú Năm kể, 2 người như anh em ruột thịt. Một người ở Phù Mỹ, một người ở Hoài Nhơn, nhưng khi tập kết ra miền Bắc năm 1954 lại cùng ở chung một chỗ và từ đó thân nhau, cùng nhau xung phong trở lại miền Nam chiến đấu từ tháng 7-1962. May mắn là cả 2 lại được phân công về công tác cùng một chỗ-K8.
Và, cũng ngược lại với chú Bốn Đỗ, chú Năm rất ghét món đậu rồng, dù chế biến theo kiểu gì thì ông cũng chẳng hề đụng đũa. Có một bữa, tôi đi với chú trong một chuyến công tác ra phía trước. Trưa hôm ấy, mở nắp ăng-gô ra và nhìn thấy có mỗi món đậu rồng luộc với gói muối mè, chú tỏ ý khó chịu. Sau đó, chú bảo mình sẽ làm nhiệm vụ cảnh giới, còn tôi đi tìm chút rau gì tươi tươi ở con suối gần đó để 2 chú cháu... cải thiện. Chú Năm vừa dứt lời, tôi nghe có tiếng một con gà rừng gáy cách đấy không xa. Tôi xách khẩu AK47 báng gấp đi theo hướng có tiếng gáy. Lát sau quay về chỗ chú, hiểu tính ông, tôi giấu con gà phía sau lưng và nhẹ nhàng bước tới trước mặt... “Mầy biết một viên đạn đưa từ miền Bắc vào đến đây tốn biết bao công sức, cả máu xương của đồng bào, đồng chí không, không thể nổ súng bừa bãi như thế được, về nhà sẽ kiểm điểm!”. Khi thấy con gà trên tay tôi, ông nhẹ giọng bảo: “Thôi, lỡ rồi...”.
Chú Bốn Đỗ lại khác, muốn “sai” chúng tôi làm công việc gì đấy, ông luôn tìm lời nhỏ nhẹ động viên, có một lần ông hứa: “Đứa nào sau đợt công tác này hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, mai kia hòa bình chú sẽ... sẽ gả con gái chú cho. Con gái chú đẹp lắm đấy”-sau lời hứa như... đinh đóng cột ấy, tôi chợt thấy mắt ông đượm buồn. Tôi biết, khi đó con gái chú cùng thím đang trong lao tù của giặc tận ngoài Côn Đảo xa xôi. Ở đó họ ngày đêm như “cá trên thớt, như chim trong lồng”, chịu bao đòn roi tra khảo tàn bạo của kẻ thù!
Bây giờ thì cả chú Nguyễn Xuân Đỗ và chú Hồ Ngọc Năm đều đã ra đi vĩnh viễn bởi tuổi già và những căn bệnh hiểm nghèo do hậu quả của chiến tranh để lại... Mỗi khi nhớ về quá khứ, về các chú Nguyễn Xuân Đỗ, Hồ Ngọc Năm, về bao đồng đội, đồng chí thuở trước và những bữa cơm ở rừng, những món thực phẩm như món đậu rồng của một thời gian khổ, ác liệt, tôi thấy mắt mình cứ cay cay, tim mình như thắt lại... Giờ thì món rau đậu rồng được coi là đặc sản trong các nhà hàng hạng sang ở nhiều đô thị và người ta đã trồng nó theo hướng đại trà, biến chúng thành hàng hóa có giá trị khá cao, đáp ứng một phần nhu cầu “ăn rau để phòng, trị bệnh”!
ĐOÀN MINH PHỤNG

Có thể bạn quan tâm

Du hành với “Pleiku xưa và nay”

Du hành với “Pleiku xưa và nay”

(GLO)- Phố núi Pleiku (tỉnh Gia Lai) hơn nửa thế kỷ trước có gì thú vị? Triển lãm ảnh “Ký ức Pleiku” diễn ra tại Bảo tàng tỉnh từ ngày 24-1 đến 21-2 đưa người xem bước vào chuyến du hành trở về Pleiku xưa, thêm cơ sở so sánh với sự phát triển không ngừng của đô thị trung tâm khu vực Bắc Tây Nguyên.

Cỏ xanh về phía cũ

Cỏ xanh về phía cũ

(GLO)- Bài thơ “Cỏ xanh về phía cũ” của Vân Phi như một bức tranh ký ức trầm lắng về mái ấm gia đình, nơi thời gian dường như lặng lẽ quay trở lại qua những hình ảnh quen thuộc, giản dị thấm đượm tình cảm và ký ức sâu sắc khiến người ta thổn thức.

Người gùi hơ’mon về đâu

Người gùi hơ’mon về đâu

(GLO)- Bài thơ Người gùi hơ’mon về đâu của Vân Phi mở ra không gian đẫm hơi men rượu cần, tiếng hát lẫn trong gió khuya và những ký ức chảy trôi theo thời gian, mơ hồ giữa hiện thực và quá khứ. Tất cả như gợi lên sự tiếc nuối, khắc khoải về một giá trị của truyền thống đang dần phai nhạt.

Nhịp xoang

Nhịp xoang

(GLO)- Bài thơ "Nhịp xoang" của Nguyễn Đình Phê mang đậm hơi thở văn hóa Tây Nguyên, tái hiện không khí lễ hội cồng chiêng rộn ràng, nơi con người hòa cùng thiên nhiên và thần linh. Bài thơ không chỉ ca ngợi vẻ đẹp văn hóa mà còn truyền tải tinh thần đoàn kết, gắn bó bền chặt.

Thơ Sơn Trần: Lời hẹn

Thơ Sơn Trần: Lời hẹn

(GLO)- Bài thơ "Lời hẹn" của Sơn Trần không chỉ mô tả vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn là những hẹn ước, kỳ vọng về sự trở về, đoàn tụ, gắn kết. Hình ảnh trong thơ vừa thực tế, vừa thi vị, mang đến cho người đọc cảm nhận ấm áp về tình yêu quê hương, về sự đổi thay tươi đẹp của đất trời vào xuân.

Thơ Vân Phi: Xuân dậy thì

Thơ Vân Phi: Xuân dậy thì

(GLO)- "Xuân dậy thì" của tác giả Vân Phi mang đến những xúc cảm thanh tân về mùa xuân và tình yêu, đưa chúng ta vào không gian tràn đầy sức sống của một buổi sáng quê hương. Mùa xuân được nhen lên trên từng chồi non lộc biếc, và mùa xuân cũng bắt đầu khi tình yêu có những hồi đáp ngọt ngào...

Nụ cười Tây Nguyên

Nụ cười Tây Nguyên

(GLO)- Đi tìm nụ cười Tây Nguyên chính là tìm đến cái đẹp nguyên sơ. Nó ẩn sâu trong đôi mắt, nó hé nhìn qua đôi tay trong vũ điệu, nó giấu mình sau chiếc gùi đầy ắp lúa, bắp và nó cũng chân tình, e ấp khi nói lời thương. Nụ cười ấy hồn hậu, sâu lắng và tự nhiên như núi rừng, sông suối.

Thơ Nguyễn Thanh Mừng: Khảo cổ An Khê

Thơ Nguyễn Thanh Mừng: Khảo cổ An Khê

(GLO)- Bài thơ "Khảo cổ An Khê" như một cách "phượt" về quá khứ, về những dấu tích cổ xưa của Nguyễn Thanh Mừng. Để rồi, ở đó, tác giả lại tự "khảo cổ chính mình", khát khao tìm lại những giá trị thuần khiết, giản dị của con người và văn hóa dân tộc.

Thơ Nguyễn Đức Nam: Đừng buồn nhé, em!

Thơ Nguyễn Đức Nam: Đừng buồn nhé, em!

(GLO)- Bài thơ “Đừng buồn nhé, em!” của Nguyễn Đức Nam phản ánh một thông điệp sâu sắc về thời gian, sự thay đổi và sự chấp nhận trong cuộc sống. Tác giả dùng hình ảnh dòng sông để minh họa cho những chu kỳ trong đời người và những thăng trầm mà mỗi người phải trải qua.

Thơ Lê Vi Thủy: Mùa em

Thơ Lê Vi Thủy: Mùa em

(GLO)- Mùa xuân không chỉ đơn thuần là thời gian mà còn là biểu tượng của sự tái sinh, của tình yêu thương, sự đoàn tụ và những ước nguyện hạnh phúc. Đó cũng chính là thông điệp mà tác giả Lê Vi Thủy gửi gắm đầy nhẹ nhàng, tinh tế trong bài thơ "Mùa em". Mời các bạn cùng đọc.

Thơ Nguyễn Ngọc Hưng: Gọi xuân

Thơ Nguyễn Ngọc Hưng: Gọi xuân

(GLO)- Bài thơ "Gọi xuân" của tác giả Nguyễn Ngọc Hưng mang đậm không khí của mùa đông, song cũng là lời mời gọi, khắc khoải của mùa xuân. Từng câu thơ như một niềm khát khao về sự thay đổi, hồi sinh và tươi mới...

Thơ Lữ Hồng: Suốt mùa tuổi ngọc

Thơ Lữ Hồng: Suốt mùa tuổi ngọc

(GLO)- Mùa xuân vừa đến, cho ta cái cớ để nhìn lại chặng đường dài mình đã đi qua. Thêm một tuổi là thêm nhiều những hạnh ngộ và chia ly, nguyện ước và mong chờ. Nhưng chừng nào còn tha thiết với đời là ta còn “tuổi ngọc”. Bài thơ của tác giả Lữ Hồng dưới đây như thay lời muốn nói...

Thơ Nguyễn Ngọc Hạnh: Quê ngoại

Thơ Nguyễn Ngọc Hạnh: Quê ngoại

(GLO)- Bài thơ "Quê ngoại" của Nguyễn Ngọc Hạnh không chỉ là lời tỏ bày tình cảm quê hương mà còn là một thông điệp sâu sắc về sự gắn bó với cội nguồn. Quê hương dù có xa hay gần, luôn là một phần không thể thiếu trong cuộc đời mỗi người, là điểm tựa để chúng ta tìm về trong những lúc lạc lõng nhất.

Thơ Lê Từ Hiển: Hoa vô thường

Thơ Lê Từ Hiển: Hoa vô thường

(GLO)- "Hoa vô thường" của Lê Từ Hiển mang đậm dấu ấn của sự chiêm nghiệm về cuộc đời, sự vô thường của thời gian qua những biến chuyển của thiên nhiên. Mỗi câu thơ như một khoảnh khắc dịu dàng, mà ở đó, tác giả lặng lẽ nhìn nhận và đón nhận mọi biến động của đời sống...

Thơ Nguyễn Ngọc Hạnh: Giếng xưa

Thơ Nguyễn Ngọc Hạnh: Giếng xưa

(GLO)- Với "Giếng xưa", tác giả Nguyễn Ngọc Hạnh đã khắc họa bức tranh đầy khắc khoải, suy tư về cuộc đời. Khi thời gian lặng lẽ trôi qua, mỗi hình ảnh đều như một lời tâm sự rất riêng tư nhưng cũng thật gần gũi và đầy cảm xúc.

Cuộc thi viết “Pleiku - Khát vọng vươn lên” năm 2025 nhận tác phẩm từ ngày 20-1

Cuộc thi viết “Pleiku - Khát vọng vươn lên” năm 2025 nhận tác phẩm từ ngày 20-1

(GLO)- Nhằm tiếp tục phát huy hiệu quả công tác tuyên truyền, quảng bá hình ảnh, con người phố núi Pleiku, UBND thành phố phối hợp với Báo Gia Lai tổ chức Cuộc thi viết về chủ đề “Pleiku-Khát vọng vươn lên” năm 2025 trên các ấn phẩm của Báo Gia Lai. Ban tổ chức bắt đầu nhận bài từ ngày 20-1.