Nhân sự kiện pháo đài Đồng Đăng được công nhận di tích lịch sử quốc gia - Kỳ 3: Chứng tích bi hùng

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

Đối với cư dân sống ở thị trấn miền biên viễn Đồng Đăng, những ngày tháng đối đầu với quân xâm lược tháng 2/1979 giống như những thước phim quay chậm bi thương mà hào hùng. Họ đã sống, chiến đấu cùng bộ đội hiên ngang như thành đồng lũy thép ngay tuyến đầu Tổ quốc.

Sống, chết bên nhau

Ông Đào Đức Cường (SN 1954) sinh sống ở dốc Tịnh Tạm thuộc khu Dây Thép, thị trấn Đồng Đăng, huyện Cao Lộc, Lạng Sơn. Ở gần khu pháo đài Đồng Đăng nên cứ dịp lễ Tết hoặc ra dịp tháng 2 hàng năm, ông Cường đều leo đồi lên tận chân pháo đài thắp tâm nhang cho người thân của ông đã tử nạn trong hầm sâu lũy thép.

Người dân Lạng Sơn biểu thị sự quyết tâm giữ đất biên cương. (Ảnh tư liệu chụp tháng 2 năm 1979)
Người dân Lạng Sơn biểu thị sự quyết tâm giữ đất biên cương. (Ảnh tư liệu chụp tháng 2 năm 1979)

Theo ông Cường, vào đầu tháng 2/1979, ông tham gia quân ngũ, đeo lon Thượng sỹ đóng quân ở Huế. Nghe thông tin chiến sự biên giới phía Bắc nổ ra, quê hương bị tàn phá, Cường xin phép và được đơn vị cho tranh thủ về nhà. Chuyến trở về của ông như dài bất tận, lòng như lửa đốt bởi linh tính mách bảo gia đình đang gặp nạn.

Rạng sáng 17/2/1979, phía Trung Quốc khai chiến, nã pháo vào thị trấn Đồng Đăng, đồng bào các dân tộc địa phương tán loạn bìu díu nhau chạy về phía ga Đồng Đăng sơ tán về xuôi. Không ngờ, bọn địch đã cài cắm lực lượng vào thị trấn từ trước, khi chiến sự nổ ra, ga tàu nhanh chóng bị địch chiếm... Hàng trăm người dân, trong đó có 7 người trong gia đình ông Cường (gồm 2 nam, 5 nữ) cùng một cháu ngoại lúc đó có mấy tháng tuổi ngược lên pháo đài lánh nạn.

“Mãi đến sau năm 2000, người dân Đồng Đăng mới có điều kiện khai quật pháo đài. Hơn 30 bộ hài cốt được tìm thấy ở tầng hầm đầu tiên. Đến nay vẫn chưa ai tiếp cận được tầng hầm thứ 3, nơi ước tính còn hàng trăm xác người nằm lại”.

Ông Đào Đức Cương, Trưởng khu Dây Thép, thị trấn Đồng Đăng

Lũy thép trên đồi cao trở thành chiến trường ác liệt. Nằm cách biên giới Việt- Trung gần hai cây số, pháo đài Đồng Đăng có ba tầng, được xây dựng từ thời Pháp rất kiên cố. Quân Trung Quốc sử dụng rất nhiều xe tăng và các loại phương tiện khác tấn công, theo sau là hàng vạn bộ binh…Khi này, ở bốn hướng chiến hào quân ta có khoảng 300 người chỉ có súng AK, CKC, đại liên, B40...

Ông Đào Đức Cương nghẹn lời kể chuyện tìm anh em ở pháo đài Đồng Đăng. Ảnh: Duy Chiến
Ông Đào Đức Cương nghẹn lời kể chuyện tìm anh em ở pháo đài Đồng Đăng. Ảnh: Duy Chiến

Theo “nhật ký chiến trường” của ông Nguyễn Duy Thực, cựu chiến binh Đại đội 42, Trung đoàn 4, Sư đoàn 3 đóng quân ở pháo đài Đồng Đăng thì phía Trung Quốc dùng chiến thuật “biển người” đánh chiếm bằng được lũy thép này. Lực lượng của ta tuy mỏng nhưng dũng mãnh, kiên cường, dùng các loại súng để đẩy lui các đợt tấn công của địch.

Nòng súng đỏ ran từ bốn phía chiến hào pháo đài nhả đạn về phía quân thù. Lớp này ngã xuống, toán địch khác lại nhào lên hung hãn. Pháo địch, súng cối trút xuống trận địa ta ngày càng đan dày. Nhiều anh em đã ngã xuống. Những người lính bị thương vẫn không rời trận địa. Một số thanh niên, người dân sơ tán có sức khỏe cùng chung chiến hào, tiếp đạn dược, sơ cứu thương binh.

Giữa lúc chiến sự ác liệt, tối 18/2, lực lượng trinh sát của Sư đoàn 3 Sao Vàng mở đường máu để đưa thương binh, người dân già yếu, em nhỏ đi về tuyến sau, song nhiều người vẫn tình nguyện ở lại, sống chết cùng nhau, trụ lại tiền phương.

Cuộc chiến trong hầm tối

Lũy thép pháo đài Đồng Đăng. Ảnh: D.T
Lũy thép pháo đài Đồng Đăng. Ảnh: D.T

Đại tá Nông Văn Phjeo, nguyên Phó Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy Biên phòng tỉnh Lạng Sơn vẫn còn khắc ghi những giây phút sinh tử bên trong pháo đài Đồng Đăng: Trong pháo đài lúc này ngoài đơn vị chúng tôi còn có rất nhiều đồng bào. Hầu hết là đàn bà, trẻ em từ dưới thị trấn Đồng Đăng chạy lên tránh đạn pháo từ sớm ngày 17/2. Vì đông người nên thức ăn, nước uống dự trữ sắp hết, chỉ còn dăm cân mì sống và mấy lít nước cạn dưới đáy phuy. Trong pháo đài tối om và ngột ngạt vì hơi người, trẻ con khóc lặng đi vì khát nước, khát sữa. Mệt mỏi, đói khát, nhiều người dựa lưng vào góc tường mà đầu choáng, người ớn lạnh…

Lương thực và đạn dược trong pháo đài bắt đầu cạn dần. Nguy cấp nhất là không có quân chi viện vì quân địch đã bao vây tứ phía. Quân xâm lược chiếm được phần nóc pháo đài và cho người đến cửa hầm bắc loa gọi hàng, đáp lại chúng chỉ là những loạt AK từ bên trong bắn ra.

“Những ngày tiếp theo, số lượng người thương vong ngày càng tăng. Pháo đài tối om và ngột ngạt bởi mùi tử khí, máu me, tiếng trẻ con khóc không thành tiếng vì khát nước, khát sữa...Mất 5 ngày đêm vẫn chưa chiếm được pháo đài khiến quân thù cay cú, điên cuồng.

Ngày 22/2/1979, chúng đặt bộc phá giật sập cửa hầm, dùng lựu đạn cay thả xuống các lỗ thông hơi, sau đó đổ xăng xuống hầm rồi phóng hỏa. Pháo đài rung chuyển cùng hàng chục, hàng trăm tiếng nổ chói tai rung óc. Hơi khói cay xè, đen đặc cuồn cuộn ùa vào từng căn phòng trong pháo đài. Tiếng trẻ con sặc sụa rồi lặng đi. Mấy đồng chí thương binh kêu nấc lên hai, ba tiếng rồi lịm. Tôi bò sờ soạng lần về lỗ thông hơi để thở nhưng từ ngoài địch nhét lựu đạn cay vào.

Qua ánh lửa, tôi thấy đồng bào mình ôm nhau nằm la liệt, mắt nhìn về phía xa như mong ước điều gì… Tôi cảm thấy một thứ khói khủng khiếp xộc vào họng cháy bỏng và lửa cháy bừng bừng. Địch phun hơi độc hóa học và phun xăng vào pháo đài, tôi hoa mắt rồi lịm đi.

Tỉnh dậy, tiếng nổ vẫn ầm ầm, máu ứa ra từ miệng, tai đặc quánh. Tôi bật dậy, kêu lên “Còn đồng chí nào sống không?”. May mắn có tiếng trả lời, tất thảy có 6 người lính bò tới nắm tay nhau, thề bám trụ, tìm cách thoát thân. Ai cũng gắng gượng dồn hết sức lực cào bới đất đá, tìm đường ra khỏi pháo đài, mất nhiều tiếng đồng hồ chúng tôi mới nhìn thấy ánh sáng. Lợi dụng đêm tối, chúng tôi chui ra khỏi hang và rút đi”, cựu chiến binh Nông Văn Phjeo xúc động kể lại.

Hoa đưa hương nơi chiến lũy

Trò chuyện với phóng viên Tiền Phong, ông Đào Đức Cường không kìm được nước mắt tâm sự: Hành trình tìm cha mẹ và các em của ông bị gián đoạn tới tận ngày 5/3/1979 khi Trung Quốc rút quân. Vào được thị trấn Đồng Đăng, ông theo chỉ dẫn của những nhân chứng sống sót mà chạy một mạch lên pháo đài. Xác người được chôn dọc theo con dốc.

Trên đỉnh pháo đài, những lô cốt đổ nghiêng, vỡ toác vì bộc phá. Lối xuống các tầng hầm bị đất đá lấp kín, không có cách nào tiếp cận được bên trong. Cả 7 anh chị em cùng cháu ruột của ông Cường đã mãi mãi nằm lại trong pháo đài, cùng hàng trăm dân thường và bộ đội Việt Nam.

Tôi cũng thường gặp bà Lê Thị Nga (SN 1963) nhà ở trung tâm thị trấn Đồng Đăng cùng nhóm thiện tâm địa phương có mặt tại pháo đài mang hoa quả, đèn nhang cúng tiến chiến sỹ và đồng bào tử nạn. Bà Nga cho biết, sâu trong pháo đài cũng có linh hồn của cha và anh trai của mình. Áp Tết này, nhóm thiện tâm trồng những nhóm hoa tươi xung quanh chân pháo đài. Xuân sang, hoa đưa hương thơm ngát…

Ông Đào Đức Cường cho hay, sau biến cố tháng 2/1979, ông chuyển ngành sang làm nhân viên đường sắt. Ông chăm sóc bố mẹ già và xây dựng cuộc sống mới. Ông nhiệt tình tham gia các công tác ở địa phương, là thành viên văn nghệ của Hội cựu chiến binh, Hội người cao tuổi...

(Còn nữa)

Theo Nguyễn Duy Chiến (TPO)

Có thể bạn quan tâm

Nhân chứng đường số 7

Nhân chứng đường số 7

Đã 50 năm sau cuộc truy kích trên đường số 7 (nay là quốc lộ 25), nhưng những cựu binh vẫn hào hùng kể về câu chuyện một thời kiên cường, sẵn sàng đem cả tính mạng dâng cho Tổ quốc.

Xanh lại chiến trường Tây Nguyên Kỳ cuối

E-magazineXanh lại chiến trường Tây Nguyên Kỳ cuối: Vươn mình trong kỷ nguyên mới

(GLO)- 50 năm sau ngày giải phóng, được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước cùng nỗ lực vươn lên của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên, vùng đất “nóc nhà” của Đông Dương chuyển mình mạnh mẽ. Bước vào giai đoạn mới, vùng Tây Nguyên đang đứng trước vận hội mới, phát huy lợi thế vươn lên cùng đất nước.

Các dự án triển khai dang dở, kéo dài (trong ảnh là đoạn đường cụt giữa TP. Gia Nghĩa do vướng mặt bằng) làm lãng phí nguồn lực đầu tư công

E-magazineXanh lại chiến trường Tây Nguyên Kỳ 4: Gia Lai ngày ấy, bây giờ...

(GLO)- Sau ngày giải phóng năm 1975, Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân các dân tộc tỉnh Gia Lai đã cùng chung sức, kiến thiết lại quê hương từ đống hoang tàn của chiến tranh. Đến nay Gia Lai đã vươn mình phát triển mạnh mẽ, từ đô thị đến nông thôn khoác lên mình màu áo khang trang. 

Lối về nẻo thiện

Lối về nẻo thiện

Nơi ấy, những con người lầm lỗi bắt đầu với từng con chữ dưới sự dìu dắt của những người thầy mang sắc phục công an. Lớp học đặc biệt còn nhen nhóm ý chí hoàn lương, mở thêm một cánh cửa ra thế giới bên ngoài.

50 năm - những kí ức cho ngày thống nhất đất nước

50 năm - những kí ức cho ngày thống nhất đất nước - Bài 7: Ngày giải phóng qua lời kể của những người tham gia chiến đấu

Vào những ngày tháng Tư lịch sử, không khí tại TP Hồ Chí Minh náo nhiệt hơn, nhất là khi những tiêm kích Su và trực thăng của Quân chủng Phòng không - Không quân Việt Nam bay tập luyện trên bầu trời thành phố, chuẩn bị cho chương trình kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam (30/4/1975 - 30/4/2025).

Xanh lại chiến trường Tây nguyên Kỳ 2

E-magazineXanh lại chiến trường Tây nguyên Kỳ 2: Buôn Ma Thuột từ hoang phế vươn lên thủ phủ Tây Nguyên

(GLO)- Nếu chiến thắng Đak Tô-Tân Cảnh ( năm 1972) xoay chuyển cục diện chiến trường Tây Nguyên thì chiến thắng Buôn Ma Thuột đánh sập “tử huyệt” của địch, mở ra Chiến dịch Hồ Chí Minh để Bắc-Nam sum họp một nhà. Từ một thị xã hoang phế, Buôn Ma Thuột ngày nay xứng đáng là thủ phủ Tây Nguyên

Gặp 'pháp sư' cuối cùng nặn hình nhân thế mạng trên đảo Lý Sơn

Gặp 'pháp sư' cuối cùng nặn hình nhân thế mạng trên đảo Lý Sơn

Từ bao đời nay, với người dân trên đảo Lý Sơn (tỉnh Quảng Ngãi), mỗi khi có người thân gặp nạn ngoài biển mà không tìm thấy xác, gia đình họ sẽ tìm đến “pháp sư” nhờ nặn một “hình nhân thế mạng” bằng đất sét, thực hiện nghi lễ chiêu hồn, nhập cốt rồi mang đi chôn như người quá cố.

50 năm - những kí ức cho ngày thống nhất đất nước

50 năm - những kí ức cho ngày thống nhất đất nước - Bài 5: Chuyện về người chiến sĩ nhiều lần cảm tử, góp công giải phóng miền Nam

Phải hẹn rất nhiều lần, tôi mới gặp được người cựu chiến binh, Đại uý Nguyễn Đức Trọng (SN 1956, quê quán xã Long Thành, huyện Yên Thành, Nghệ An, người góp công cùng đồng đội tham gia giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

50 năm - những kí ức cho ngày thống nhất đất nước

50 năm - những kí ức cho ngày thống nhất đất nước - Bài 4: 'Địch đánh núi Dinh thành vôi, các đồng chí sẽ thành tượng đá'

Khi ấy, có lúc nguy nan, đồng chí Phó Chính ủy Trung đoàn 812, Đại tá Nguyễn Văn Tý động viên chúng tôi: Bọn địch đánh núi Dinh thành vôi, các đồng chí sẽ thành tượng đá. Dù sống hay chết, chúng ta đều là những anh hùng của dân tộc này!.., ông Nguyễn Công Binh nhớ lại.

50 năm - những kí ức cho ngày thống nhất đất nước

50 năm - những kí ức cho ngày thống nhất đất nước - Bài 1: Chiến thắng Đức Lập trong ký ức của một cựu binh

30/4 năm nay đánh dấu mốc chặng đường 50 năm Ngày Giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, Bắc Nam sum họp một nhà. Để có được niềm hạnh phúc cho ngày thống nhất ấy, không biết bao nhiêu công sức, máu xương của các thế hệ cha anh đã hy sinh vì Tổ quốc.

Về Đất Tổ nghe chuyện cây nghìn năm tuổi - Bài 2: Những đại lão mộc bên dòng sông Bứa

Về Đất Tổ nghe chuyện cây nghìn năm tuổi - Bài 2: Những đại lão mộc bên dòng sông Bứa

Đứng sừng sững bên dòng sông Bứa (đoạn qua Khu 4, xã Quang Húc, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ), cây thị cổ được công nhận cây di sản Việt Nam có tuổi đời ước tính hơn 1.100 năm vẫn xanh tươi, tỏa bóng mát. Hàng năm, “cụ” thị vẫn ra hoa trái lan tỏa mùi hương nồng nàn.