Người đàn bà đất võ từ buôn hàng "quốc cấm" đến "vua" dó bầu

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
Sau ngày giải phóng, bà đi buôn trầm hương, cái nghề lúc đó bị cấm. Bà là phụ nữ đơn thân, 3 đứa con còn nhỏ, sợ mình vướng vòng lao lý không ai nuôi con, vậy là bà nghĩ đến chuyện trồng cây dó bầu để tự tạo ra trầm rồi chiết xuất ra tinh dầu trầm để xuất khẩu.
Nghĩ là làm, năm 1999, bà mua gom đất ven núi Bà nằm trên địa bàn huyện Phù Cát và trồng hơn 20ha cây dó bầu. Đến bây giờ, bà là người duy nhất ở Bình Định đang sở hữu diện tích trồng cây dó bầu lớn nhất và có rừng dó lâu năm nhất. Bà là Nguyễn Thị Mùa (SN 1958) ở thôn Hòa Dõng, xã Cát Tân (huyện Phù Cát, Bình Định).  
 
Bà Nguyễn Thị Mùa kể chuyện trồng dó lấy trầm.
“Vua” dó bầu ở Bình Định
Bây giờ, mặc dù đã 61 tuổi, nhưng thần thái của bà Mùa vẫn còn rất tinh anh, năng động. Bà dẫn dắt câu chuyện rất khúc chiết, mạch lạc ngược về cái thời bà dám “cả gan” mua hàng chục héc ta đất để trồng cây dó bầu, loại cây trồng còn rất lạ lẫm với nông dân lúc bấy giờ.
Bà Mùa kể: Trong thời gian đi buôn bán trầm hương, bà đã ý thức được cái nghề của mình đã gián tiếp tiếp tay cho lâm tặc phá rừng. Nghề này lại rất bấp bênh bởi bị ngành chức năng kiểm soát mặt hàng trầm hương rất gắt. Do đó, bà nghĩ cách phải tự tạo ra trầm hương làm nguyên liệu và học hỏi kỹ thuật chế biến tinh dầu trầm để ổn định chuyện làm ăn.

“Trong số 20ha dó tôi trồng ban đầu đã có 8ha bị chết sau 1 vụ cháy rừng. Hiện nay tôi còn 8ha với 5.000 cây dó đã 20 năm tuổi được trồng ven núi Bà và 5ha trồng sau nay cũng đã được 15 tuổi. Diện tích dó nói trên cơ bản đủ nguyên liệu để tôi xay bột cung cấp cho thị trường Hà Nội và sản xuất nhang trầm” bà Mùa cho hay.

Bà tìm đến vùng đất lâm nghiệp nằm ven núi Bà trên địa bàn huyện Phù Cát để mua gom đất rẫy của bà con trồng rừng nhưng không đạt hiệu quả kinh tế nên bán. Khi đã có trong tay 20ha đất rẫy nằm liền kề nhau, bà Mùa liền tổ chức trồng cây dó bầu trên toàn diện tích đã mua.

“Hồi ấy, giống cây dó bầu chưa được sản xuất tại Bình Định, tôi phải mua cây giống ngoài Hà Tĩnh và mua cây giống tự nhiên của người dân nhổ trên rừng đem về bán. Cây giống dó bầu hồi ấy có giá 20.000đ/cây. Mất đúng 1 năm tôi mới trồng kín diện tích 20ha đất với mấy trăm ngàn cây dó bầu”, bà Mùa nhớ lại.
Theo bà Mùa, dó bầu là loại cây “nắng không ưa mưa không chịu”, bị úng cũng chết mà để lâu không tưới nó cũng chết. Khi ấy hệ thống điện chưa phủ kín như bây giờ, muốn có nước tưới cho 20ha dó bầu bà Mùa phải dẫn nước từ trên núi Bà xuống bằng hệ thống đường ống. Khu vực nào thuận lợi thì bà tưới trực tiếp bằng đường ống, những vùng nằm xa bà đào ao, dẫn nước về chứa trong ao và bơm tưới bằng máy nổ hiệu Đông Phong.
Thời điểm ấy, bà mẹ đơn thân Nguyễn Thị Mùa sống với rừng dó nhiều hơn là ở nhà. Bà lo việc tưới cây, làm cỏ, bón phân. Một mình làm không xuể, bà thuê 10 công lao động thường xuyên làm việc cùng bà. Thời điểm làm cỏ, đánh chồi, tỉa nhánh bà phải thuê thêm hàng chục công lao động thời vụ.
 
Nấm vi sinh bà Mùa tự làm để cấy tạo trầm.
Theo bà Mùa, sau khi trồng 7 - 8 năm thì cây dó đến chu kỳ cấy tạo trầm. Kỹ thuật cấy trầm bà Mùa cũng tự mày mò làm. Hồi ấy cấy trầm hầu hết đều dùng hóa chất. Trước khi cấy hóa chất, cây dó bầu được khoan nhiều lỗ.
Mỗi người có 1 cách cấy trầm riêng, có người khoan lỗ dày, có người khoan thưa; có người khoan sâu, có người khoan cạn; có người khoan mũi to, có người khoan mũi nhỏ.
Sau khi cấy hóa chất vào những lỗ khoan trên cây dó, từ 24 đến 36 tháng sau là có thể khai thác trầm. Thời gian tạo trầm để càng lâu thì cho ra sản phẩm trầm càng tốt. Thế nhưng nếu kỹ thuật cấy không đạt về mặt kỹ thuật thì cây dó sẽ lại da (liền da), khoảng 1 năm rưỡi phải thu hoạch dù trầm còn non, chất lượng kém.
Có người cấy trầm theo kinh nghiệm dân gian là cấy bột sắt vào cây, hoặc cấy mảnh bom, đạn và cho dầu vào các vết thương của cây dó để dẫn dụ kiến. Khi kiến lên ăn dầu vô tình làm tổn thương cây. Qua quá trình thời gian cây sẽ tạo ra trầm mắt kiến…  
Người đầu tiên nấu tinh dầu trầm
Sau khi rừng dó của bà đã tạo ra trầm, bà Mùa liền tổ chức nấu tinh dầu trầm để xuất khẩu. Khi ấy, cả nước chỉ có 1 vài cơ sở chế biến tinh dầu trầm, mà cơ sở nào cũng giấu nghề nên bà chẳng thể học được cách nấu.
Bà Mùa quyết định học lóm bằng cách khai thác trầm từ rừng dó của mình rồi mang đến tận những cơ sở chế biến tinh dầu trầm để bán.
“Cấy hóa chất thì cây dó tạo trầm nhanh, nhưng tiếp xúc với hóa chất  thường xuyên tôi lo ngại đến sức khỏe, nên thời gia sua này tôi chuyển sang kỹ thuật tạo trầm bằng cấy nấm vi sinh. Nấm vi sinh mình cũng tự làm.

Cấy nấm vi sinh phải làm nhiều lần và cây dó tạo trầm chậm hơn cấy hóa chất, nhưng chất lượng trầm cho đạt hơn rất nhiều. Trầm cấy bằng nầm vi sinh có chất lượng không thua trầm tự nhiên. Tạo trầm bằng nấm vi sinh trên cây có độ tuổi càng cao và có đường kính gốc cây lớn sẽ cho sản lượng trầm càng nhiều”, bà Nguyễn Thị Mùa chia sẻ.

Cứ mỗi chuyến hàng bà Mùa hỏi han một ít thông tin về kỹ thuật nấu tinh dầu trầm từ những nhân công. Mỗi lần mỗi ít, bà ráp nối thông tin lại rồi tự hình thành nên quy trình kỹ thuật nấu tinh dầu trầm cho riêng mình. Sau đó bà Mùa xây lò, mua nồi về làm thử nghiệm.


“Những mẻ dầu đầu tiên nấu không đạt, hao tốn nguyên liệu nhiều mà cho dầu rất ít. Không nãn, tôi tiếp tục vừa làm vừa rút kinh nghiệm, khắc phục dần dần và cuối cùng cũng có được quy trình chế biến tinh dầu trầm hoàn thiện”, bà Mùa kể.
Xưởng chế biến tinh dầu trầm của bà Mùa lúc ấy nấu 50 nồi. Một mẻ dầu phải nấu mất cả tuần lễ, 50 nồi mới cho ra được 1 góc (250ml) tinh dầu trầm.
Thời điểm ấy tinh dầu trầm chưa tiêu thụ được trong nước, chủ yếu xuất khẩu đi nước ngoài với giá 200 triệu đồng/lít.
“Khi ấy chủ yếu nấu bằng than đá nên có thu nhập rất khá. Nhưng cả ngày lẫn đêm phải bám lò để canh dầu được chiết xuất ra, nếu sai sót mẻ dầu sẽ hỏng, không cho ra dầu thì công cốc. Hít mùi than đá ngày này sang ngày kia sức khỏe bị ảnh hưởng trầm trọng, nên tôi đã nghĩ đến chuyện nấu bằng điện.
Thế nhưng với 50 nồi, nấu cả ngày lẫn đêm mỗi tháng mới cho ra được 1 lít tinh dầu trầm, bán được vài ba trăm triệu, trong khi đó phải mất đến 1 vài trăm triệu đồng tiền điện.
 
Trầm hương thu hoạch được.
Tính toán chi li thấy lời lãi chẳng còn bao nhiêu nên tôi ngưng việc nấu dầu, chuyển sang xay bột trầm để cung ứng thị trường và sản xuất nhang trầm để bán”, bà Mùa tâm sự.
Xưởng chế biến tinh dầu trầm của bà Mùa giờ đã trở thành nhà máy xay bột trầm. Vừa dắt tôi đi tham quan nhà máy, anh Trà Dương Bảo (34 tuổi), con trai bà Mùa, vừa chia sẻ: “Máy xay bột trầm không được xay các loại cây khác, cả cây bời lời cũng là nguyên liệu làm nhang, nhưng nếu đưa vào máy xay bột trầm để xay thì trầm sẽ mất mùi”.
Hiện nay, ngoài cung cấp bột trầm cho thị trường Hà Nội, bà Mùa còn sản xuất nhang trầm để cung ứng cho người tiêu dùng. 1 bó nhang trầm 80 cây bà Mùa bán giá 70.000 đồng, tuy khá đắt, nhưng với xu hướng bảo vệ an toàn cho sức khỏe nên hiện nay người tiêu dùng rất ưa chuộng nhang trầm.
“Do bột nhang trầm hiện nay có giá cao nên thị trường xuất hiện bột nhang trầm giả. Nhang trầm mua với giá 500.000 đồng/kg mà ngửi thơm mùi trầm “nức mũi” thì đó là bột giả được tẩm hóa chất. Nhang mà được làm bằng bột loại đó thì sẽ gây ảnh hưởng đến sức khỏe của người ngửi”, anh Trà Dương Bảo bộc bạch.
Dân Việt (Theo Vũ Đình Thung/Báo Nông nghiệp Việt Nam)

Có thể bạn quan tâm

Sê San: Sông kể chuyện đời…

Sê San: Sông kể chuyện đời…

(GLO)- Dòng Sê San miệt mài chở nặng phù sa; sóng nước bồng bềnh không chỉ kể câu chuyện mưu sinh, bảo vệ phên giậu, mà còn gợi mở tương lai phát triển bền vững, góp phần khẳng định vị thế của vùng biên trong hành trình dựng xây quê hương, đất nước.

Chiếc nỏ của người lính trận Ia Drăng

Chiếc nỏ của người lính trận Ia Drăng

(GLO)- Mang ra chiếc nỏ được cất giữ hơn 30 năm, ông Siu Long (làng Gòong, xã Ia Púch, tỉnh Gia Lai)-nhân chứng trong trận đánh thung lũng Ia Drăng 60 năm trước chậm rãi nói: “Tôi muốn tặng món quà Tây Nguyên này cho một người bạn đến từ nước Mỹ”.

Ông Ksor Yung có lối sống trách nhiệm, gần gũi nên được mọi người quý mến. Ảnh: R’Ô Hok

Ksor Yung: Từ lối rẽ sai lầm đến con đường sáng

(GLO)- Từ một người từng lầm lỡ, ông Ksor Yung (SN 1967, ở xã Ia Rbol, tỉnh Gia Lai) đã nỗ lực vươn lên trở thành người có uy tín trong cộng đồng. Ông tích cực tham gia vận động, cảm hóa những người sa ngã, góp phần giữ gìn an ninh trật tự và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc.

Trung tá Cao Tấn Vân (thứ 2 từ phải sang)-Phó Đội trưởng Phòng An ninh đối ngoại (Công an tỉnh Gia Lai) chụp ảnh cùng đồng đội. Ảnh: NVCC

Cống hiến thầm lặng vì sứ mệnh cao cả

(GLO)- Hành trình "gieo hạt" hòa bình bắt đầu từ những con người bình dị. Những cống hiến thầm lặng của họ vì sứ mệnh cao cả, góp phần tích cực đưa hình ảnh đất nước và con người Việt Nam yêu chuộng hòa bình đến bạn bè quốc tế.

Giới trẻ hào hứng tham gia các khóa học làm đèn lồng Trung thu thủ công

Hồi sinh Trung thu xưa

Giữa phố phường rực rỡ ánh đèn led, đèn ông sao và mặt nạ giấy bồi bất ngờ “tái xuất”, gợi lại ký ức những mùa trăng rằm xưa. Sự trở về của Trung thu truyền thống đã manh nha trong những năm gần đây, được nhiều người trẻ hào hứng đón nhận.

Gặp người lính Thành cổ năm xưa

Gặp người lính Thành cổ năm xưa

(GLO)- Trở về từ cuộc chiến khốc liệt ở Thành cổ Quảng Trị, cựu chiến binh Hồ Anh Hòa ít khi nhắc lại kỷ niệm chiến đấu với gia đình, con cháu. Bởi ông cho rằng, việc cầm súng lao vào cuộc chiến thời điểm ấy là trách nhiệm của một người con yêu Tổ quốc, “không nên công thần”.

Các cổ vật gốm sứ chén, bát, đĩa... được ngư dân nhặt được.

Làng cổ vật

Nép mình bên eo biển Vũng Tàu, thôn Châu Thuận Biển (xã Đông Sơn, huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi) không chỉ nổi tiếng là “làng lặn Hoàng Sa” với truyền thống bám biển, giữ chủ quyền, mà còn được ví như “kho báu” lưu giữ hàng loạt cổ vật từ những con tàu đắm hàng thế kỷ dưới đáy đại dương.

'Phu sâm' ở núi Ngọc Linh

'Phu sâm' ở núi Ngọc Linh

Nhiều doanh nghiệp và người dân lên ngọn núi Ngọc Linh hùng vĩ ở TP.Đà Nẵng thuê môi trường rừng để trồng sâm, mở ra một nghề mới để đồng bào Xê Đăng bản địa mưu sinh suốt nhiều năm qua: 'phu sâm', tức nghề cõng hàng thuê.

Thầy giáo làng đam mê sưu tầm đồ xưa cũ

Thầy giáo làng đam mê sưu tầm đồ xưa cũ

(GLO)- Không chỉ bền bỉ gieo con chữ cho học trò nghèo, thầy Võ Trí Hoàn-Hiệu trưởng Trường Tiểu học và THCS Quang Trung (xã Ia Tul, tỉnh Gia Lai) còn là người đam mê sưu tầm đồ xưa cũ. Với thầy, mỗi món đồ là bài học sống động về lịch sử dân tộc mà thầy muốn kể cho học trò.

Tự hào 2 xã Anh hùng Ia Dơk, Kon Chiêng

Tự hào 2 xã Anh hùng Ia Dơk, Kon Chiêng

(GLO)- Trong kháng chiến chống Mỹ, xã Ia Dơk (tỉnh Gia Lai) là căn cứ cách mạng quan trọng, đồng thời cũng là nơi hứng chịu nhiều đau thương, mất mát. Những cánh đồng từng bị bom cày xới, những mái nhà bình yên hóa tro tàn, bao số phận người dân vô tội bị giặc sát hại.

Những cây đa trăm tuổi giữa đại ngàn Kon Ka Kinh

Những cây đa trăm tuổi giữa đại ngàn Kon Ka Kinh

(GLO)- Hàng trăm năm qua, những gốc đa lặng lẽ vươn mình trong rừng già Kon Ka Kinh, thấm đủ chuyện nhân sinh để hóa thành "chứng nhân" của đại ngàn. Quần thể đa cổ thụ không chỉ tạo nên cảnh quan kỳ vĩ, mà còn trở thành di sản tinh thần gắn bó với bao thế hệ cư dân sống dựa vào rừng.

Vào mùa xoay chín

Vào mùa xoay chín

(GLO)- Sau hơn 4 năm chắt chiu nhựa sống, hấp thụ tinh hoa đất trời, những cây xoay ở cánh rừng Kbang, Sơn Lang, Đak Rong đã bung hoa kết trái. Vào mùa xoay chín, người dân cũng đón “lộc rừng”, mang về nguồn thu nhập đáng kể.

Dệt những sợi kí ức giữa đại ngàn

Dệt những sợi kí ức giữa đại ngàn

Khi sản phẩm công nghiệp ngày càng tràn ngập thị trường thì ở vùng núi rừng Đưng K’nớ (xã Đam Rông 4, tỉnh Lâm Đồng) vẫn còn những người phụ nữ cần mẫn bên khung cửi, kiên nhẫn nhuộm từng sợi chỉ, dệt từng hoa văn. Những tấm thổ cẩm ra đời từ nơi đây là hơi thở níu giữ kí ức truyền thống đại ngàn.

Dặm dài Trường Lũy

Dặm dài Trường Lũy

(GLO)- Trường Lũy là một phức hợp bao gồm: lũy-bảo (đồn)-đường, hình thành từ thời chúa Nguyễn, xây dựng quy mô dưới triều Nguyễn; đi qua địa phận 3 tỉnh trước đây: Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định.

null