Gần đây, vấn đề này được đề cập nhiều hơn trên các diễn đàn, nhất là khi các chủ thể làm việc ngoài ngành giáo dục lên tiếng, trong đó có chuyên gia tổ chức quốc tế, thì nó được dư luận chú ý hơn.
Nguyên nhân của thực trạng cũng đã được các chuyên gia trong và ngoài ngành giáo dục phân tích thấu đáo, nhưng trước hết phải kể đến lý do khó khăn về nguồn lực tài chính của một nhà nước đang phát triển. Có quá nhiều lĩnh vực phải đầu tư nhưng nguồn ngân sách vẫn còn rất hạn hẹp. Trong đó, giáo dục đại học (GDĐH) là lĩnh vực chưa được chú trọng đầu tư vì các nhà hoạch định chính sách cho rằng các trường ĐH có thể tồn tại, phát triển bằng nguồn học phí.
Một lý do khác là bởi trong thời gian dài, vẫn còn nhiều cá nhân, cơ quan có thẩm quyền, kể cả giới truyền thông, cho rằng VN đang "thừa thầy, thiếu thợ". Trong khi thực tế là chúng ta chỉ thừa lao động chưa qua đào tạo, đang thiếu cả thầy lẫn thợ. Định kiến này dẫn đến chủ trương cắt giảm đầu tư ngân sách cho GDĐH để đẩy mạnh xã hội hóa và giảm tình trạng "thừa thầy thiếu thợ" như đã hình dung.
Mặt khác, điều kiện các nguồn thông tin tham khảo từ kinh nghiệm của các nước phát triển không toàn diện và chưa được cập nhật. Thành thử nhiều cơ quan có thẩm quyền có nhận thức hoặc quan điểm về xã hội hóa GDĐH là chuyển nguồn lực từ ngân sách nhà nước (NSNN) sang nguồn đóng góp của người học, dẫn đến tỷ lệ đầu tư NSNN cho GDĐH ngày càng giảm và đầu tư từ gia đình người học ngày càng tăng. Điều này dẫn đến sự nhầm lẫn trong chính sách: tự chủ ĐH có điều kiện là tự chủ tài chính, là không được đầu tư từ NSNN. Mà đáng lẽ phải là: tự chủ ĐH bao gồm cả tự chủ sử dụng hiệu quả nguồn đầu tư từ NSNN để phát triển trường ĐH trên cơ sở điều kiện của mỗi trường, theo mục tiêu được đầu tư.
Một khi tài chính của ĐH chủ yếu phụ thuộc vào học phí thì hệ quả nhãn tiền là chất lượng đào tạo sẽ chủ yếu duy trì ở mức cầm chừng. Bởi đầu tư cho GDĐH có chất lượng là rất tốn kém, mà không trường nào có thể tăng học phí lên quá cao.
Nó còn tạo ra vòng luẩn quẩn kìm hãm phát triển GDĐH. Để tồn tại và phát triển thì nguồn thu chính của các trường ĐH ở VN hiện nay đều phải là học phí. Vì vậy, hoạt động sống còn đối với trường ĐH là tuyển sinh. Nếu tuyển sinh được nhiều thì trường mới có nguồn thu để duy trì hoạt động, nâng cao chất lượng, tăng thu nhập, thu hút được giảng viên tốt... và tăng lợi nhuận/hiệu quả hoạt động của trường. Vì vậy, rất khó và rất ít trường ĐH ở VN có chính sách giới hạn quy mô để nâng cao chất lượng. Nhưng muốn tăng số lượng tuyển sinh thì học phí phải thấp (ở mức độ sinh viên chấp nhận được). Học phí thấp thì không thu hút được giảng viên giỏi và nâng cao chất lượng đào tạo như mong muốn.
Một hệ lụy khác là các trường ĐH có xu hướng đầu tư cho đào tạo để thu học phí nhanh, ít đầu tư cho nghiên cứu, khiến VN khó có ĐH nghiên cứu theo đúng chuẩn của loại hình này.
Trong điều kiện kinh tế tri thức mà nhà nước duy trì mức đầu tư thấp và không mở rộng chính sách thu học phí cho trường ĐH thì mục tiêu phát triển hệ thống GDĐH và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để tạo ra một trong ba đột phá phát triển kinh tế có thể trở thành mục tiêu khó khả thi.