Lý do Vạn Lý Trường Thành nghìn năm không đổ khiến người người sửng sốt

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

Suốt hàng nghìn năm sương gió, Vạn Lý Trường Thành vẫn đứng vững và trở thành niềm tự hào của dân tộc Trung Hoa.

 Trải qua hàng ngàn năm sương gió, Vạn Lý Trường Thành vẫn đứng sừng sững, thách thức thời gian.
Trải qua hàng ngàn năm sương gió, Vạn Lý Trường Thành vẫn đứng sừng sững, thách thức thời gian.



Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, Vạn Lý Trường Thành vẫn đứng vững chãi “đua gan cùng tuế nguyệt”. Có lẽ nhiều người cho rằng, bức tường thành này được xây dựng từ những vật liệu quý hiếm và phức tạp nên mới bền vững tới vậy. Tuy nhiên, trên thực tế, để Vạn Lý Trường Thành hiên ngang đứng vững như ngày nay chính là do một loại vữa đặc biệt được làm từ gạo nếp - loại thực phẩm rất quen thuộc của người Á Đông.

Vữa gạo nếp: Loại vữa “thần thánh” giúp trường thành sống mãi với thời gian

Trong quá trình trùng tu bức tường thành tại thủ phủ Tây An, các nhà nghiên cứu nhận thấy rất khó để cạo bỏ lớp vữa trên những viên gạch cổ. Khi kiểm tra với hóa chất, các nhà khoa học phát hiện loại vừa này có phản ứng với thuốc thử như gạo nếp.

Kết quả sau khi phân tích tia hồng ngoại cũng cho thấy cấu trúc phân tử tương tự như gạo nếp. Chính vì vậy, các nhà khoa học Trung Quốc đã nhất loạt khẳng định Vạn Lý Trường Thành ngàn năm không đổ tất cả là nhờ vữa gạo nếp.

Các nghiên cứu chỉ ra rằng, do gạo nếp có chứa thành phần Amylopectin, trong khi đó, chất này hầu như không tan trong nước và có độ kết dính cao. Đây chính là yếu tố quan trọng giúp cho vữa gạo nếp trở nên cứng và chắc chắn. Có thể người xưa đã nhận thấy đặc tính này của gạo nếp nên đưa nó vào trong ngành xây dựng.

Theo các nghiên cứu, các chuyên gia phát hiện những người thợ xây dựng cổ đại đã trộn súp gạo nếp với đá vôi đã nung nóng ở nhiệt độ cao, hòa thêm nước và các thành phần khác để tạo ra vữa gạo nếp. Cấu trúc này rất rắn chắc và không hề thấm nước.

Ông Trương Băng Kiêm, nhà khoa học người Trung Quốc, nhận định, vừa gạo nếp là loại vữa phức hợp đầu tiên trên thế giới được tạo ra từ nguyên liệu hữu cơ kết hợp với nguyên liệu vô cơ. Loại vữa đặc biệt này cũng là một trong những sáng tạo về mặt kỹ thuật vĩ đại nhất trong lịch sử.


 

 Lý do giúp Vạn Lý Trường Thành ngàn năm không đổ chính là nhờ vữa gạo nếp.
Lý do giúp Vạn Lý Trường Thành ngàn năm không đổ chính là nhờ vữa gạo nếp.



Ngoài xây dựng tường thành, người xưa còn dùng vữa gạo nếp để xây dựng những công trình kiến trúc lớn như lăng mộ, tháp ngọc,… Những công trình được xây dựng bằng loại vữa này đến nay vẫn còn tồn tại, thách thức cùng thời gian và đứng vững kể cả khi bị tác động bởi nhiều trận động đất.

Điển hình là những bức tường thành cổ được xây dựng ở Nam Kinh, Tây An và Hình Châu dưới thời nhà Minh, dù trải qua 600 năm lịch sử nhưng chúng vẫn đứng vững và chưa hề có dấu hiệu sụt lún, sập sệ. Ngoài ra, khi khai quật mộ cổ được xây dựng vào thời nhà Minh, dù đã sử dụng đến cuốc, xẻng hay máy ủi, máy xúc, công tác khai quật vẫn gặp không ít khó khăn vì tường xây quá chắc.

Lịch sử phát triển của các loại vữa trong công trình kiến trúc cổ xưa

Mặc dù vữa gạo nếp rất chắc chắn nhưng do gạo nếp là một trong những sản phẩm xa xỉ nên không được sử dụng rộng rãi. Trước khi vữa gạo nếp ra đời, loại vữa xây dựng còn trải qua nhiều thế hệ khác nhau.

 

 Vữa gạo nếp được sử dụng để xây tường thành, lăng mộ, ngọc tháp.
Vữa gạo nếp được sử dụng để xây tường thành, lăng mộ, ngọc tháp.



Trước thời nhà Thương, hỗn hợp chất kết dính được dùng trong kiến trúc chủ yếu được làm từ rơm khô trộn với bùn. Đến thời nhà Châu, vôi mới dần được sử dụng để thay thế.

Vào thời Nam Bắc triều từ thế kỷ 5 TCN, vôi, đất sét và cát được trộn lẫn với nhau tạo thành vữa gọi là vữa tam hợp. Ba thứ nguyên liệu được trộn lại theo tỷ lệ nhất định và sau khi khô, chúng sẽ trở nên vững chắc lạ thường. Từ đó, loại vữa này được sử dụng phổ biến và kéo dài tới thế kỷ 20.

Sau đó, người xưa phát hiện ra gạo nếp cũng có tác dụng kết dính hiệu quả nên sử dụng nó như một vật liệu xây dựng. Sau đời Tống, Nguyên, vữa gạo nếp mới được sử dụng đại trà.

Phương An (saostar)

Có thể bạn quan tâm

Dùng mặt nạ kỹ thuật số để phục hồi tranh. (Ảnh: Franetic)

Công nghệ đột phá phục chế tranh cổ chỉ trong vài giờ

(GLO)-Với những bức tranh có niên đại hàng thế kỷ, bị hỏng nặng, việc phục chế gặp nhiều rủi ro và tiêu tốn thời gian. Một bước đột phá về công nghệ vừa được các nhà khoa học thử nghiệm thành công, đã giải quyết được khó khăn này, đó là phương pháp mặt nạ kỹ thuật số.

Đừng để giấc mơ Tây Nguyên ngủ yên trên đỉnh đồi

(GLO)- Người Tây Nguyên làm du lịch không chỉ bằng khu nghỉ dưỡng, mà còn bằng lòng hiếu khách và nghệ thuật kể chuyện. Vậy nên, đừng để giấc mơ Tây Nguyên ngủ yên trên đỉnh đồi mà hãy đánh thức nó bằng chính giọng nói của rừng, bằng bàn tay của bà con và bằng tình yêu với buôn làng của mình.

Ý nghĩa các biểu tượng trong lễ cầu mưa Yang Pơtao Apui

Ý nghĩa các biểu tượng trong lễ cầu mưa Yang Pơtao Apui

(GLO)- Lễ cầu mưa Yang Pơtao Apui là hiện tượng văn hóa xã hội đặc sắc của cộng đồng người Jrai ở Plei Ơi, xã Ayun Hạ, huyện Phú Thiện, tỉnh Gia Lai. Nghi lễ này tập hợp nhiều biểu tượng văn hóa độc đáo giúp chúng ta hiểu rõ hơn về thế giới tâm linh của cư dân bản địa.

Qua xứ trầm hương: Di sản văn hóa từ miền duyên hải Khánh Hòa - Bài 1: Di sản văn hóa từ miền duyên hải

Qua xứ trầm hương: Di sản văn hóa từ miền duyên hải Khánh Hòa - Bài 1: Di sản văn hóa từ miền duyên hải

“Khánh Hòa là xứ trầm hương/Non cao biển rộng người thương đi về” - những câu thơ của nhà nghiên cứu Quách Tấn trong biên khảo Xứ trầm hương vừa là sự khẳng định danh xưng của một miền đất, vừa như lời mời gọi lữ khách bốn phương tìm về với thủ phủ của trầm hương Việt Nam.

Kể chuyện buôn làng bằng thanh âm sáo trúc

Kể chuyện buôn làng bằng thanh âm sáo trúc

(GLO)- Ở buôn E Kia (xã Ia Rsai, huyện Krông Pa), ông Hiao Thuyên được biết đến là một nghệ nhân tài hoa khi giỏi cả sáo trúc, biểu diễn cồng chiêng, hát dân ca... Bằng những việc làm thiết thực, ông đã góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc Jrai và xây dựng khối đại đoàn kết ở buôn làng.

Tây Nguyên: Nhịp sống mới dưới những nếp nhà xưa

Tây Nguyên: Nhịp sống mới dưới những nếp nhà xưa

Nhắc đến đại ngàn Tây Nguyên, có lẽ biểu tượng văn hóa “sừng sững” chính là những mái nhà rông, nhà dài truyền thống của đồng bào các dân tộc. Trong những biến chuyển của thời đại, không gian che chở các hộ gia đình và lan tỏa văn hóa cộng đồng ấy khó tránh khỏi những hư hao, nghiêng ngả.

Đa dạng lễ cúng cầu mưa của người Jrai

Đa dạng lễ cúng cầu mưa của người Jrai

(GLO)- Tuy có sự phát triển của hệ thống thủy lợi song lễ cúng cầu mưa vẫn đóng vai trò quan trọng trong đời sống cư dân vùng thung lũng Cheo Reo. Sự đa dạng trong nghi thức cúng của mỗi cộng đồng dân cư đã góp phần làm phong phú thêm đời sống văn hóa đồng bào các dân tộc Tây Nguyên.

Biểu tượng vũ trụ trên cây nêu của người Bahnar

Biểu tượng vũ trụ trên cây nêu của người Bahnar

(GLO)- Người Bahnar quan niệm rằng mọi sự vật, hiện tượng đều có sự hiện diện của thần linh và con người phải tôn trọng, thờ cúng. Vì vậy, họ có nếp sống, sinh hoạt văn hóa với hệ thống lễ hội vô cùng phong phú, gắn với vòng đời người và chu kỳ canh tác nông nghiệp.

null