Xuất khẩu nông sản tăng trưởng nhanh
Gia Lai là vùng sản xuất một số loại nông sản có quy mô lớn, giá trị kinh tế cao, nhất là cây công nghiệp và cây ăn quả. Với điều kiện tự nhiên thuận lợi, những năm qua, tỉnh đã xây dựng nhiều trang trại sản xuất nông nghiệp tập trung, ứng dụng công nghệ cao phục vụ công nghiệp chế biến và xuất khẩu.
Đồng thời, tỉnh ưu tiên phát triển nhiều sản phẩm nông nghiệp chủ lực có giá trị kinh tế cao. Hoạt động xuất khẩu nông sản liên tục tăng trưởng về quy mô, sản phẩm ngày càng được nâng cao cả về chất và lượng, vươn đến 40 quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới.
Chia sẻ về tình hình phát triển sản xuất, tiêu thụ nông sản trên địa bàn tỉnh, Giám đốc Sở Công thương Phạm Văn Binh vui mừng cho biết: Những năm gần đây, kim ngạch xuất khẩu của tỉnh tăng trưởng mạnh mẽ. Cụ thể, năm 2022, kim ngạch xuất khẩu đạt 660 triệu USD; năm 2023 đạt 680 triệu USD và năm 2024 ước đạt 800 triệu USD. Trong đó, mặt hàng xuất khẩu chủ lực là cà phê với 210.000 tấn, tương ứng 620 triệu USD, tăng 26,53% về giá trị; mủ cao su là 830 tấn, tương ứng 1,25 triệu USD, tăng 4,17%; sản phẩm gỗ đạt 2,1 triệu USD, tăng 110%...
Theo ông Binh, bên cạnh cà phê, 3 năm gần đây, xuất khẩu trái cây của tỉnh đạt được kết quả khả quan. Diện tích cây ăn quả năm 2024 ước đạt 33.250 ha, tăng 17.314 ha so với năm 2019. Sản lượng trái cây năm 2024 ước đạt 569.500 tấn, tăng khoảng 436.570 tấn so với năm 2019.
Toàn tỉnh hiện có 10.732,4 ha cây ăn quả được chứng nhận tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP. Hiện một số loại trái cây tươi của Gia Lai như: sầu riêng, chuối, chanh dây… đã đủ tiêu chuẩn để xuất khẩu chính ngạch vào thị trường lớn trên thế giới, trong đó có các thị trường khó tính như châu Âu, Nhật Bản.
“Ngoài ra, trên địa bàn tỉnh đã được cấp 227 mã số vùng trồng với tổng diện tích 9.668 ha phục vụ xuất khẩu và 38 mã số cơ sở đóng gói trái cây xuất khẩu với tổng công suất 1.550-1.700 tấn quả tươi/ngày. Đặc biệt, kim ngạch xuất khẩu rau, quả của tỉnh tăng dần qua từng năm. Cụ thể, năm 2022 đạt 130 triệu USD, năm 2023 đạt 145 triệu USD và năm 2024 ước đạt 160 triệu USD”-ông Binh thông tin.
Về giải pháp tăng sức cạnh tranh cho sản phẩm nông sản của tỉnh, Phó Giáo sư-Tiến sĩ Hồ Thị Thu Hòa-Viện trưởng Viện Nghiên cứu và Phát triển logistics Việt Nam-nhận định: Gia Lai có tiềm năng lớn về sản xuất nông sản gồm: cà phê, hồ tiêu, hạt điều, mủ cao su, trái cây...
Các mặt hàng này đều đã có chỗ đứng trên thị trường. Đặc biệt, nông dân Gia Lai có tay nghề cao trong canh tác. Do đó, thay vì cung ứng các sản phẩm dạng tươi hoặc chỉ qua khâu sơ chế thì tỉnh nên tập trung nhiều hơn vào việc hỗ trợ các doanh nghiệp chế biến sản phẩm nông sản nhằm gia tăng giá trị của hàng hóa, đồng thời giảm thiểu sự phụ thuộc vào các yếu tố bên ngoài.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp chủ hàng trong lĩnh vực nông sản cần được hỗ trợ xây dựng chuỗi cung ứng bền vững từ sản xuất, chế biến đến vận chuyển. Điều này sẽ tạo ra nguồn hàng phong phú và ổn định cho ngành logistics.
Phát triển logistics làm đòn bẩy tăng trưởng thương mại
Ngày 17-5-2023, UBND tỉnh đã ban hành Kế hoạch số 1130/KH-UBND về phát triển dịch vụ logistics giai đoạn 2023-2025, định hướng đến năm 2030. Năm 2024, Sở Công thương phối hợp với Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công thương) tổ chức thành công hội nghị triển khai các giải pháp phát triển dịch vụ logistics trên địa bàn tỉnh với hơn 300 đại biểu tham dự nhằm định hướng và thúc đẩy phát triển ngành logistics một cách hiệu quả, bền vững, nâng cao giá trị, năng lực cạnh tranh của nông sản và các sản phẩm hàng hóa của tỉnh.
Bên cạnh đó, tỉnh định hướng xây dựng 2 trung tâm logistics và 2 cảng cạn để phục vụ cho việc phát triển dịch vụ logistics nhằm thúc đẩy lưu thông hàng hóa trong tỉnh và khu vực Tây Nguyên. Đặc biệt, Trung tâm kho vận quốc tế logistics Tây Nguyên tại huyện Mang Yang với quy mô hạng II, diện tích 511 ha đã được UBND tỉnh phê duyệt danh mục kêu gọi đầu tư giai đoạn 2026-2030.
Ngoài ra, Cảng Hàng không Pleiku được Bộ Giao thông-Vận tải phê duyệt Quy hoạch thời kỳ 2021-2030 với công suất khoảng 4 triệu hành khách và 4.500 tấn hàng hóa/năm; tầm nhìn đến năm 2050 có công suất khoảng 5 triệu hành khách và 12.000 tấn hàng hóa/năm. Đây cũng là cơ hội để tỉnh xây dựng chuỗi sản phẩm nông nghiệp và logistics, tạo thế cho Gia Lai trở thành vùng kinh tế động lực trong khu vực, thúc đẩy các tỉnh khác trong vùng cùng phát triển.
Những năm qua, Công ty cổ phần Cảng Quy Nhơn luôn nỗ lực để trở thành đơn vị cung cấp dịch vụ hàng đầu và là sự lựa chọn đáng tin cậy cho khách hàng của khu vực Tây Nguyên nói chung, Gia Lai nói riêng trong lĩnh vực khai thác cảng và logistics.
Ông Lê Hồng Quân-Tổng Giám đốc Công ty-cho biết: “Chúng tôi luôn duy trì ổn định tuyến dịch vụ kết nối vận chuyển container từ Cảng Quy Nhơn đến các cảng lớn tại Trung Quốc và các nước Đông Nam Á. Tuyến dịch vụ này mở ra cơ hội cho các doanh nghiệp tại Bình Định và vùng Tây Nguyên đẩy mạnh thông thương hàng hóa tới các thị trường Trung Quốc, Đông Bắc Á, châu Âu, Mỹ, giúp thời gian vận chuyển hàng hóa đến các khu vực trên được rút ngắn, chi phí vận chuyển được tiết giảm.
Dự kiến trong năm 2025, Công ty sẽ mở văn phòng đại diện tại Gia Lai nhằm kết nối các khách hàng khu vực Tây Nguyên có nhu cầu xuất-nhập khẩu hàng hóa thông qua Cảng Quy Nhơn”.
Đề cập giải pháp mang tính đột phá nhằm phát triển dịch vụ logistics và thu hút đầu tư xây dựng hạ tầng logistics tại Gia Lai trong thời gian tới, Phó Giáo sư-Tiến sĩ Hồ Thị Thu Hòa cho rằng: Tỉnh cần áp dụng chính sách ưu đãi đầu tư vào các ngành hàng chủ lực có tiềm năng lớn về sản xuất. Kêu gọi và đầu tư phát triển hạ tầng dịch vụ logistics theo quy hoạch đã được phê duyệt.
Phát triển mạng lưới đối tác chiến lược, trong đó nâng cao vai trò liên kết hiệp hội-doanh nghiệp-Nhà nước trong phát triển logistics. Tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để khuyến khích các doanh nghiệp tham gia các hiệp hội ngành logistics. Việc tham gia các hiệp hội ngành logistics sẽ giúp doanh nghiệp cập nhật thông tin, công nghệ mới và có cơ hội hợp tác kinh doanh, đồng thời mở rộng thị trường tiêu thụ.
Bên cạnh đó, Gia Lai nên có những nghiên cứu chuyên sâu như: xây dựng chiến lược phát triển trung tâm logistics đến năm 2030, tầm nhìn 2050; nghiên cứu xây dựng và phát triển hệ sinh thái logistics theo hướng bền vững và liên kết vùng tại tỉnh đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Cùng với đó, xây dựng chính sách hỗ trợ doanh nghiệp khai thác có hiệu quả các hiệp định thương mại tự do (FTA) mà Việt Nam đã ký kết.
“Tuy nhiên, việc khai thác các FTA đang chịu tác động từ chính sách về mức độ áp dụng công nghệ, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững đến từ các đối tác của Việt Nam nói chung, Gia Lai nói riêng.
Do đó, các chính sách thiết thực để hỗ trợ doanh nghiệp sử dụng các trang-thiết bị, phương tiện hiện đại, sử dụng năng lượng tái tạo hoặc giảm phát thải khí CO2 và áp dụng các giải pháp về công nghệ giúp giảm thiểu ô nhiễm, tiết kiệm năng lượng trong các hoạt động vận chuyển, kho bãi sẽ giúp ngành logistics phát triển bền vững hơn, đồng thời khai thác có hiệu quả các FTA”-Phó Giáo sư-Tiến sĩ Hồ Thị Thu Hòa kỳ vọng.
Phó Giáo sư-Tiến sĩ Hồ Thị Thu Hòa-Viện trưởng Viện Nghiên cứu và Phát triển logistics Việt Nam: “Tính đến tháng 10-2024, Việt Nam đã ký kết, thực thi 17 FTA và đang đàm phán 2 FTA khác. Việc tham gia ngày càng nhiều FTA không chỉ cho thấy quyết tâm hội nhập sâu rộng mà còn tạo ra những cơ hội lớn cho Việt Nam tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu, tăng cường xuất khẩu, thúc đẩy tăng trưởng GDP và hoàn thiện thể chế”.