Làng chằm "áo giáp lá"

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
Để giúp người dân chống chọi trước thời tiết khắc nghiệt, từ bao đời qua, một sản phẩm rất đơn sơ, mộc mạc nhưng không kém phần độc đáo đã ra đời, nó được ví như chiếc “áo giáp lá”.
Một ngày giữa tháng 8, một người quen ở TPHCM ra miền Trung công tác, gọi điện thoại nhờ tôi tìm giúp một chiếc áo tơi ở Hà Tĩnh. Áo tơi ở địa bàn tỉnh Hà Tĩnh sản xuất nhiều, nhưng đặc biệt nổi tiếng khắp cả nước là áo tơi làm tại thôn Yên Lạc, xã Quang Lộc, huyện Can Lộc. Tôi phi xe máy ra tận thôn Yên Lạc (cách thành phố Hà Tĩnh khoảng 30-35km) để mua áo tơi. Cứ nghĩ rằng ra đây sẽ có nhiều áo tơi, tuy nhiên khi ra đến nơi, hỏi người dân thì được biết, thời điểm này không phải chính vụ nên người chằm áo tơi ở Yên Lạc vào đã tạm nghỉ chằm áo chuyển sang làm công việc khác. Nếu muốn có áo tơi Yên Lạc phải đặt trước…
Sản xuất áo tơi đã giúp người dân Yên Lạc nâng cao thu nhập
Sản xuất áo tơi đã giúp người dân Yên Lạc nâng cao thu nhập
Nghề lắm công phu
Thôn Yên Lạc được xem là “cái nôi” của nghề thủ công chằm (đan, may) áo tơi nổi tiếng nhất ở Hà Tĩnh. Đến nay, mặc dù không ai biết chính xác nghề này có từ bao giờ, nhưng các thế hệ người dân ở đây đều có ý thức kế thừa, bảo tồn, phát triển nét hồn quê dân dã riêng của mình. Cũng nghề này đã giúp người dân có thêm nguồn thu nhập, góp phần xóa đói giảm nghèo, thay đổi diện mạo nông thôn mới của xã.
Công việc chằm áo tơi ở thôn cao điểm từ tháng 2 đến tháng 6 (âm lịch). Vì “trái vụ” nên tôi đã nhờ chị Nguyễn Thị Hằng (40 tuổi, người dân ở thôn) đặt người quen chằm giúp mấy chiếc áo tơi. Quay lại vào hôm sau, tôi nhận 3 chiếc áo tơi (mỗi chiếc 60.000 đồng) và tôi đã gửi bằng đường bưu điện vào cho người quen. Nhận được áo, người quen của tôi tấm tắc khen, áo rất đẹp, chắc chắn!
Quang Lộc nói riêng, Hà Tĩnh nói chung, được coi là mảnh đất “chảo lửa, túi mưa”, “mưa úng đất, nắng nẻ trời”. Mùa hè nắng nóng cháy da, mùa đông rét thấu xương thịt. Để giúp người dân chống chọi trước thời tiết khắc nghiệt ấy, từ bao đời qua, một sản phẩm rất đơn sơ, mộc mạc nhưng không kém phần độc đáo đã ra đời, nó được ví như chiếc “áo giáp lá” - đó chính là áo tơi. Hiện nay, dù đã có nhiều vật dụng dần thay thế chức năng của áo tơi, nhưng người dân nhiều nơi vẫn sử dụng áo tơi như “vật hộ thể” trên đồng ruộng, nhất là những ngày nắng nóng. 
Trải qua bao thăng trầm và biến động, nhưng tại làng quê Yên Lạc, các thế hệ người dân vẫn đang truyền nghề chằm áo tơi, vừa để phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập, vừa gìn giữ và phát triển nghề truyền thống của cha ông để lại. Ông Nguyễn Văn Thích (81 tuổi) ở thôn Yên Lạc, cho biết: “Nghề chằm áo tơi ở Yên Lạc ra đời ít nhất cũng đã hơn 300 năm. Trước đây, người dân trong thôn lớn lên đều biết chằm áo tơi, người người chằm áo, nhà nhà chằm áo. Ngày nay, tuy số người làm nghề giảm hơn, nhưng nghề này vẫn luôn được giữ gìn, bảo tồn và phát triển nguyên vẹn. Mỗi mùa, có hộ chằm được 250 - 300 áo tơi. Cái hay của nghề là khá đơn giản, nhẹ nhàng, không nhất thiết đòi hỏi phải có vốn nhiều, nên từ đứa trẻ con 8-9 tuổi, cho đến những người già cũng đều có thể tự làm kiếm tiền...”.
Theo ông Thích, trước đây ở làng Yên Lạc có 2 mùa chằm áo tơi là mùa nắng và mùa mưa. Mùa nắng chằm áo tơi hoàn toàn bằng lá tơi để che nắng nóng, giảm mồ hôi khi đi ngoài đường hoặc khi làm ngoài đồng; mùa mưa, chằm áo tơi bằng lá tơi kết hợp với lá cọ giúp giữ ấm hơn. Tuy nhiên, khoảng 10 năm trở lại đây, người dân không còn chằm áo tơi mùa mưa nữa, thay vào đó, chỉ chằm áo tơi mùa nắng bằng lá tơi. 
Nói về quy trình làm áo tơi, người dân ở Yên Lạc chia sẻ, tuy chiếc áo tơi có cấu tạo khá đơn giản, nghề làm áo tơi không kỳ công như nghề làm nón, nhưng để chằm được hoàn chỉnh phải trải qua rất nhiều công đoạn, đòi hỏi có sự kiên trì, chịu khó, tỉ mỉ, khéo léo của người làm nghề. Ngay từ tờ mờ sáng, người dân Yên Lạc đã chuẩn bị cơm đùm, mắm muối rồi lên vùng rừng rúi hẻo lánh ở huyện miền núi Hương Khê, Vũ Quang (cách thôn khoảng 50-60km) để lấy lá tơi. Quá trình đi rừng lấy lá mất 2-3 ngày. Lá tơi được tuyển chọn kỹ lưỡng từ những chiếc lá lành nhất, vừa đủ độ (không quá già mà cũng không quá non). Sau khi tuyển chọn lá xong, phải đem hơ sấy trên lửa cho khô. Sau đó, cuộn lá lại thành bó, đem về nhà phơi nắng cho đến lúc lá khô, chuyển màu trắng đều; tiếp đó lại đưa ra phơi dưới sương đêm để cho lá nở xòe ra, dai hơn, bền hơn. 
“Trong tất cả các công đoạn cấu thành chiếc áo tơi, thì hơ sấy lá trên lửa và phơi nắng, phơi sương là khâu chiếm nhiều thời gian nhất. Lá tơi có được hơ sấy đúng độ và phơi đủ nắng mới bền và có màu vàng nhẹ - trắng pha nâu đẹp mắt. Ngoài ra, lá tơi còn phải được phơi dưới sương đêm để khi vuốt, xếp và khâu mới không bị quăn, không bị mục hỏng”, chị Nguyễn Thị Hằng chia sẻ. Để có một chiếc áo tơi đẹp mà bền chặt, lớp lá tơi già được đặt ngoài cùng, bên trong lót thêm nhiều lớp lá nữa. Chiếc áo tơi hoàn chỉnh sau khi bẻ cổ trên cho khum lại, buộc dây thừng cố định với độ rộng đủ choàng qua đầu người. 
Ông Nguyễn Văn Thích cho biết, bình quân người làm giỏi, nhanh thì mỗi ngày sẽ chằm được khoảng 5-10 áo tơi, còn người làm bình thường khoảng 3-4 áo tơi. Mỗi chiếc áo tơi có lớp ngoài và lớp trong, chiều dài, rộng trên cổ áo tơi khoảng 80cm, phần dưới rộng khoảng 95cm. Tuy nhiên, ngày nay nhiều khách hàng có sở thích riêng khi đến làng đặt chằm áo tơi theo kích cỡ dài 1m, rộng 80cm hoặc dài 1m, rộng 90cm… 
Áo tơi của người dân làng Yên Lạc đã trở thành thương hiệu
Áo tơi của người dân làng Yên Lạc đã trở thành thương hiệu
Trăn trở với làng nghề
Trò chuyện với chúng tôi, ông Nguyễn Đăng Khoa (61 tuổi, trưởng thôn Yên Lạc) cho biết, từ bao đời nay cuộc sống của người dân Yên Lạc chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp trên diện tích hơn 35ha và làm nghề chằm áo tơi truyền thống. Hiện toàn thôn có 194 hộ dân với khoảng 750 nhân khẩu. Trước đây, có 100% hộ dân trong thôn đều làm nghề chằm áo tơi và chằm quanh năm suốt tháng. Nhiều dòng họ, hộ gia đình có nhiều thế hệ cùng truyền nhau chằm áo tơi. Nhưng khoảng 10 năm trở lại đây, chỉ còn gần 100 hộ vẫn tiếp tục gắn bó với nghề chằm áo tơi và chỉ chằm vào mùa nắng, bỏ chằm mùa mưa.
Theo ông Khoa, mấy năm nay do thời tiết ở Bắc Trung bộ nắng nóng gay gắt kéo dài, cộng với gió Lào thổi nóng rát từ sáng đến tối, nên sản phẩm áo tơi do người dân Yên Lạc sản xuất ra bao nhiêu đều tiêu thụ hết. Áo tơi Yên Lạc đã tạo được thương hiệu nổi tiếng nhất vùng, vừa đẹp về hình thức, vừa bền. Chính vì vậy, “tiếng lành đồn xa” không chỉ có người dân ở huyện Can Lộc, mà người dân nhiều địa phương trong tỉnh Hà Tĩnh, thậm chí ở Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Bình, Hà Nội… cũng tìm về đây đặt mua áo tơi. Chỉ tính từ cuối tháng 2 đến tháng 6-2018 vừa rồi, toàn thôn đã sản xuất ra hàng ngàn chiếc áo tơi, với giá bình quân là 60.000 đồng/áo, ước tính cho tổng thu nhập lên đến hàng trăm triệu đồng. Ở thôn hộ thu nhập cao nhất là hơn 20 triệu đồng/mùa, hộ thu nhập thấp cũng 5-10 triệu đồng.
So với trồng lúa, thì nghề chằm áo tơi mang lại thu nhập cao hơn gấp nhiều lần, cuộc sống của người dân nhờ đó cũng được cải thiện, có điều kiện xây dựng nhà cửa khang trang, chăm lo chu đáo cho con cháu học hành đến nơi đến chốn. Ngày nay cũng gặp không ít khó khăn vì trên thị trường đã xuất hiện nhiều loại vật dụng mới nên sản phẩm áo tơi sản xuất và tiêu thụ có phần giảm hơn. Trước đây, ở Yên Lạc còn có nghề bện dây thừng nổi tiếng khắp vùng, nhưng khi máy móc sản xuất hiện đại ra đời, khiến nghề này bị mai một thất truyền. Nay chỉ còn lại nghề chằm áo tơi này nên người dân chúng tôi đang lo lắng phải làm sao để tiếp tục truyền nghề, giữ nghề, bảo tồn, phát triển cho tương lai con cháu sau này. Vì nó không chỉ mang lại thu nhập về kinh tế mà còn là hồn cốt của làng quê nông thôn,  ông Khoa trăn trở.
Ông Đặng Hồng Kiệm, Chủ tịch UBND xã Quang Lộc, cho biết: “Trước đây, trên rừng Hương Khê, Hương Sơn, Vũ Quang, lá tơi, dây mây tự nhiên dồi dào, nhưng nay đất rừng được chuyển sang giao khoán để trồng các loại cây khác và dần phá bỏ lá tơi, dây mây tự nhiên nên ngày càng khan hiếm dần. Nay người dân Yên Lạc thậm chí còn phải đi sang tận bên Lào để lấy lá tơi, còn ở địa phương lâu nay không có lá tơi và cũng không thể khôi phục được, nên về lâu dài, để giữ gìn được làng nghề truyền thống chằm áo tơi này cũng là một vấn đề khó khăn…”.
Dương Quang (SGGP)

Có thể bạn quan tâm

'Đất thép' nở hoa

'Đất thép' nở hoa

Cách trung tâm Sài Gòn hơn 50km, ở cửa ngõ phía Tây Bắc, căn cứ Đồng Dù (Củ Chi) được quân đội Sài Gòn ví như “cánh cửa thép”, phòng tuyến kiên cố ngăn cản đà tiến công như vũ bão của quân giải phóng.

Hào hùng một thời hoa lửa

Hào hùng một thời hoa lửa

“Trưa 2/4/1975, thanh niên sinh viên học sinh (TNSVHS) nội thành chiếm rạp hát Hòa Bình (Đà Lạt), treo lá cờ Mặt trận Giải phóng và băng rôn “Hoan hô Quân Giải phóng miền Nam” lên nóc rạp hát.

Mùa vàng dưới những rặng cây

Mùa vàng dưới những rặng cây

Những quả cây vàng ươm rụng xuống nằm lổn nhổn dưới rừng cây đã đến mùa thu hoạch. Từng đoàn người lụm cụm nhặt lấy phần hạt tinh túy nhất mang về cho chủ vườn, đưa vào các nhà máy, chế biến thành loại hạt giá trị cao cung ứng cho thị trường khắp thế giới.

Xanh lại chiến trường Tây Nguyên Kỳ cuối

E-magazineXanh lại chiến trường Tây Nguyên Kỳ cuối: Vươn mình trong kỷ nguyên mới

(GLO)- 50 năm sau ngày giải phóng, được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước cùng nỗ lực vươn lên của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên, vùng đất “nóc nhà” của Đông Dương chuyển mình mạnh mẽ. Bước vào giai đoạn mới, vùng Tây Nguyên đang đứng trước vận hội mới, phát huy lợi thế vươn lên cùng đất nước.

Các dự án triển khai dang dở, kéo dài (trong ảnh là đoạn đường cụt giữa TP. Gia Nghĩa do vướng mặt bằng) làm lãng phí nguồn lực đầu tư công

E-magazineXanh lại chiến trường Tây Nguyên Kỳ 4: Gia Lai ngày ấy, bây giờ...

(GLO)- Sau ngày giải phóng năm 1975, Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân các dân tộc tỉnh Gia Lai đã cùng chung sức, kiến thiết lại quê hương từ đống hoang tàn của chiến tranh. Đến nay Gia Lai đã vươn mình phát triển mạnh mẽ, từ đô thị đến nông thôn khoác lên mình màu áo khang trang. 

Chuyện đời mẹ liệt sĩ 115 tuổi

Chuyện đời mẹ liệt sĩ 115 tuổi

Năm nay, cụ Nguyễn Thị Tý ở xã Quang Tiến, huyện Sóc Sơn, Hà Nội đã sống hơn trăm năm có lẻ, mà phần “lẻ” ấy lại không hề nhỏ tẹo nào. Ở tuổi 115, cụ hiện vẫn khỏe mạnh bên các con và 23 cháu, 43 chắt và 14 chút nội, ngoại…

50 năm - những kí ức cho ngày thống nhất đất nước

50 năm - những kí ức cho ngày thống nhất đất nước - Bài 7: Ngày giải phóng qua lời kể của những người tham gia chiến đấu

Vào những ngày tháng Tư lịch sử, không khí tại TP Hồ Chí Minh náo nhiệt hơn, nhất là khi những tiêm kích Su và trực thăng của Quân chủng Phòng không - Không quân Việt Nam bay tập luyện trên bầu trời thành phố, chuẩn bị cho chương trình kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam (30/4/1975 - 30/4/2025).

Xanh lại chiến trường Tây nguyên Kỳ 2

E-magazineXanh lại chiến trường Tây nguyên Kỳ 2: Buôn Ma Thuột từ hoang phế vươn lên thủ phủ Tây Nguyên

(GLO)- Nếu chiến thắng Đak Tô-Tân Cảnh ( năm 1972) xoay chuyển cục diện chiến trường Tây Nguyên thì chiến thắng Buôn Ma Thuột đánh sập “tử huyệt” của địch, mở ra Chiến dịch Hồ Chí Minh để Bắc-Nam sum họp một nhà. Từ một thị xã hoang phế, Buôn Ma Thuột ngày nay xứng đáng là thủ phủ Tây Nguyên

Gặp 'pháp sư' cuối cùng nặn hình nhân thế mạng trên đảo Lý Sơn

Gặp 'pháp sư' cuối cùng nặn hình nhân thế mạng trên đảo Lý Sơn

Từ bao đời nay, với người dân trên đảo Lý Sơn (tỉnh Quảng Ngãi), mỗi khi có người thân gặp nạn ngoài biển mà không tìm thấy xác, gia đình họ sẽ tìm đến “pháp sư” nhờ nặn một “hình nhân thế mạng” bằng đất sét, thực hiện nghi lễ chiêu hồn, nhập cốt rồi mang đi chôn như người quá cố.

50 năm - những kí ức cho ngày thống nhất đất nước

50 năm - những kí ức cho ngày thống nhất đất nước - Bài 5: Chuyện về người chiến sĩ nhiều lần cảm tử, góp công giải phóng miền Nam

Phải hẹn rất nhiều lần, tôi mới gặp được người cựu chiến binh, Đại uý Nguyễn Đức Trọng (SN 1956, quê quán xã Long Thành, huyện Yên Thành, Nghệ An, người góp công cùng đồng đội tham gia giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.