“Họa mi” H’Blơng kể chuyện thời chiến

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
(GLO)- Những năm 80 của thế kỷ trước, mỗi lần đi ngang qua khuôn viên Ty Văn hóa-Thông tin, tôi lại bị mê hoặc bởi một giọng nữ trong trẻo, vút cao. Sau này, tôi mới biết tiếng hát đó là của chị Rơmăh H’Blơng-một “họa mi” có thâm niên 10 năm cất cao tiếng hát giữa đạn bom.

Năm 1965, lãnh đạo Đoàn văn công tỉnh về khu 4 (nay là các huyện Chư Păh, Ia Grai và một phần huyện Đức Cơ) tuyển diễn viên. Giọng hát của cô bé H’Blơng ở làng Khóp, xã B14 (nay là xã Ia Grăng, huyện Ia Grai) đã lọt vào tai Phó Trưởng đoàn phụ trách chuyên môn. Thế là cô bé Jrai 14 tuổi mang gùi, xin bố mẹ lên đường theo cán bộ Đoàn văn công vào căn cứ khu 10.

Lúc H’Blơng đến khu 10, Đoàn văn công tỉnh đóng ở suối Kpier. Cô bé được phân công về đội ca. Tuy nhiên, cô không chỉ hát mà còn tham gia cả múa, kịch… Và vì đội không có cấp dưỡng nên diễn viên đảm nhiệm luôn cả việc này. Các anh chị thay nhau đi kiếm thức ăn, kiếm củi và nấu cơm, cô bé H’Blơng cũng phải vào cuộc.

Cũng như các cơ quan khác trong căn cứ, Đoàn văn công cũng có một cái rẫy gọi là “rẫy văn công”. Trên rẫy, đội ca được giao cho phần đất ở trên cao để trồng lúa, bí đao, cà đắng; phía dưới đội nhạc, đội múa trồng mì… H’Blơng nhớ lần đầu đi đào mì, vì củ to, lại chui vào giữa đám rễ cây, hì hục mãi không moi được lên, cô bé bật khóc.

Năm 1967, H’Blơng cùng chị Lới đi bẻ măng bên sông Ba. Vừa thoát chết vì suýt trúng thò của bà con Bahnar mình gài khắp núi rừng chống giặc thì máy bay của địch ập đến. Chúng thả xuống 2 chiếc thùng màu vàng. Chưa hiểu đó là thứ gì thì toàn thân bỏng rát, 2 chị em vội bò xuống suối rửa mặt. Về lán cơ quan, người phồng lên như bong bóng, không thể nằm được.

Từ một cô bé Jrai nhút nhát, H’Blơng được các anh chị kèm cặp, dạy tiếng Việt, uốn nắn… để trở thành 1 trong 2 giọng ca chủ chốt của đoàn. Năm 1968, chị H’Blơng được về B3 (mặt trận Tây Nguyên) tập huấn 5 tháng. Dịp này, tiếng hát của H’Blơng lần đầu được Đài Tiếng nói Việt Nam thu âm với bài hát “Kông Lơpang” bằng cả tiếng Bahnar và tiếng phổ thông. Đây là một sáng tác của Y Khưu, ca ngợi ngọn núi Lơpang biết giữ của, biết che giấu bộ đội, biết tiêu diệt địch. Thời kỳ này, người sáng tác nhiều bài hát tiếng Bahnar, Jrai nhiều nhất là anh Ksor Đứa, đội văn nghệ khu 5 (nay là huyện Chư Prông). Đoàn văn công tỉnh cũng hát nhiều bài của anh.

Ngoài những tiết mục tự biên tự diễn của địa phương, H’Blơng thường mở radio nghe các bài hát cách mạng rồi tập theo. Chị đặc biệt thích những bài hát do ca sĩ Tường Vi thể hiện. Có những bài, nghe Tường Vi hát, chị tập ngay trong ngày để đêm ra diễn luôn. Những bài hát làm nên tên tuổi Tường Vi như “Cô gái vót chông”, “Tiếng đàn ta lư”… cũng chính là những “bài tủ” của cô gái Jrai H’Blơng.

Hồi ấy, đoàn thường phân thành “tổ 3-3”. Cứ 3 người làm thành một tổ đi lưu diễn. Mỗi khi có đoàn diễn lưu động, các địa phương làm sân khấu dã chiến, ánh sáng chủ yếu bằng đuốc. Đến năm 1972 mới có đèn măng sông. Mà đèn măng sông cũng chỉ được sử dụng khi có đông người tham gia biểu diễn. Đang biểu diễn, nghe tiếng máy bay là phải tắt đèn ngay.

Đối với chị H’Blơng, chuyến đi biểu diễn ở khu 3 năm 1970 cùng khẩu hiệu “Tiếng hát át tiếng bom” là một kỷ niệm không thể mờ phai. Chuyến ấy, tổ của chị H’Blơng, chị Byin và anh Vi (nhạc công) được giao nhiệm vụ đi diễn ở rừng Đe Kdăng phục vụ cán bộ, chiến sĩ mặt trận B3.

Đêm đó trời mưa, ta có mời thêm cơ sở trong làng ra xem văn công biểu diễn. Vì trong số cơ sở được mời có gián điệp nên hôm sau, địch cho trực thăng, tàu quạt… đến vây. Một du kích được phân công bảo vệ đoàn bị bắn chết ngay tại chỗ. Du kích khác bị mảnh đạn sượt qua đầu… Một ba lô đựng trang phục của văn công bị mất, chiếc đàn t’rưng để bên người chị H’Blơng cũng bị hỏng. Anh chị em chạy xuống suối nấp…

Dứt loạt đạn bom, mọi người mang nhạc cụ (1 violon, 1 đàn t’rưng) chạy. Dép cao su của chị H’Blơng tụt lên trên đầu gối. Một chiếc ruột nghé đựng gạo bị rớt, định quay lại nhặt thì thấy Mỹ đuổi theo… Sau trận này, địch tuyên truyền là đoàn văn công biểu diễn đêm ấy chết hết rồi, làm cả vùng căn cứ như ngừng thở.

Năm 1973, B3 rút một số diễn viên của các đoàn ở các tỉnh Tây Nguyên lên tập huấn. Một thời gian sau, Đoàn Văn nghệ quân giải phóng Tây Nguyên về tuyển diễn viên. Sau khi thử giọng bằng bài “Người lái đò trên sông Pô Kô”, chị H’Blơng được thông báo trúng tuyển. Thấy H’Blơng khóc không muốn đi, chú Đẳng (Bí thư Tỉnh ủy Trần Văn Bình) động viên: “Con đi đi, đi tham quan rồi về… mai mốt giải phóng, các con về mình lại gặp nhau”.

Câu chuyện của chị H’Blơng giúp tôi hiểu thêm về các văn công trong thời chiến; thêm kính phục, mến yêu những chiến sĩ trên mặt trận văn hóa-văn nghệ không kém phần ác liệt và có cả hy sinh. Chia tay chị rồi mà ánh đuốc lồ ô cùng những sân khấu dã chiến giữa rừng đêm như vẫn vương vấn trong tôi.

Có thể bạn quan tâm

Vũ Văn Tam Lang & 50 cây violon đặc chế

Vũ Văn Tam Lang và 50 cây violon đặc chế

(GLO)- Cách đây vài năm, khi ngắm 22 cây đàn violon do ông Vũ Văn Tam Lang (phường An Phú, tỉnh Gia Lai) chế tác bằng tất cả tâm huyết được giới chuyên môn đánh giá cao, tôi thầm nghĩ, ông đã có thể tự hài lòng với những gì mình có.

Mở lối vào thế giới sắc màu

Mở lối vào thế giới sắc màu

(GLO)- Từ nét màu nước chấm phá, mực tàu loang trên giấy dó, đến những dòng thư pháp bay bổng hay gam màu rực rỡ của tranh sáp màu, acrylic - tất cả hòa quyện tại những lớp học vẽ. Mùa hè, những lớp học nhỏ ấy lặng lẽ góp phần vun đắp tâm hồn nghệ thuật cho nhiều bạn trẻ.

Hòa điệu cùng tình yêu nghệ thuật múa

Cặp đôi nghệ sĩ Nguyễn Cơ-Hồng Mai: Hòa điệu cùng tình yêu nghệ thuật múa

(GLO)- Cùng sinh năm rồng (1988) và lớn lên với tình yêu dành cho từng nhịp vũ đạo, Nguyễn Văn Cơ và Trần Thị Hồng Mai-hai nghệ sĩ trưởng thành từ Nhà hát Ca múa nhạc tổng hợp Đam San trở thành cặp đôi hiếm hoi của làng múa ở cao nguyên Pleiku, luôn song hành cả trên sân khấu và trong đời sống.

Vở ca kịch bài chòi trò chơi của quỷ: Tôn vinh chiến sĩ công an, cảnh tỉnh kẻ lầm lạc

Vở ca kịch bài chòi trò chơi của quỷ: Tôn vinh chiến sĩ công an, cảnh tỉnh kẻ lầm lạc

(GLO)- Vở diễn Trò chơi của quỷ do Ðoàn ca kịch bài chòi Bình Ðịnh (thuộc Nhà hát Nghệ thuật truyền thống tỉnh Gia Lai) dàn dựng vừa giành huy chương đồng tại Liên hoan Nghệ thuật sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc về “Hình tượng người chiến sĩ Công an nhân dân” lần thứ V-năm 2025.

"Núi trên đất bằng"

"Núi trên đất bằng"

(GLO)- Tiến sĩ Hà Thanh Vân đã nhận xét Tiểu thuyết "Núi trên đất bằng" của Võ Đình Duy là một tác phẩm văn chương đầu tay ra mắt năm 2025, đánh dấu bước chuyển đầy bất ngờ từ một kiến trúc sư trẻ sống ở Gia Lai sang hành trình kiến tạo thế giới văn chương.

NHÀ THƠ ĐÀO AN DUYÊN: Thiết tha giữ lại những xanh tươi cuộc đời

Nhà thơ Đào An Duyên: Thiết tha giữ lại những xanh tươi cuộc đời

(GLO)- Với nhà thơ Đào An Duyên, đọc và viết chính là hành trình nuôi chữ. Trong hành trình ấy, chị chọn một lối đi riêng, chắt chiu xúc cảm, gửi tiếng lòng vào từng con chữ với niềm mong giữ lại những xanh tươi cuộc đời, từ đó góp thêm một giọng thơ giàu hương sắc cho văn chương Gia Lai.

BẢO TỒN CÁC KỊCH BẢN TIÊU BIỂU CỦA HÁT BỘI BÌNH ĐỊNH: Nên tìm hướng đi mới, phù hợp thực tế

Bảo tồn các kịch bản tiêu biểu của hát bội Bình Định: Nên tìm hướng đi mới, phù hợp thực tế

(GLO)- Hát bội Bình Định là một di sản văn hóa đặc sắc với nhiều vở tuồng kinh điển như: Sơn Hậu, Tam nữ đồ vương, Ngũ hổ Bình Tây, Hồ Nguyệt Cô hóa cáo (còn có tên khác là Chém cáo, Cổ miếu vãn ca) của Nguyễn Diêu, Trầm hương các, Diễn võ đình và Cổ thành… của Đào Tấn.

Nguyễn Nhật Ánh: Người làm vườn

Nguyễn Nhật Ánh: Người làm vườn

Tôi không phải một dịch giả chuyên nghiệp - mào đầu vậy hoàn toàn không phải để biện hộ cho những sơ suất, sai sót và thô lậu mà bất cứ ai khi chạm tay vào việc dịch nói riêng, việc chữ nghĩa nói chung, dẫu là tay thuận hay tay ngang, đều phải đối mặt và chịu trách nhiệm.

Khẳng định vị thế là cơ quan báo chí chủ lực

Khẳng định vị thế là cơ quan báo chí chủ lực

Để chào đón thời khắc đặc biệt của đất nước, của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; thực hiện nhiệm vụ cao cả với vai trò, vị thế là cơ quan ngôn luận của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; thực hiện nhiệm vụ mà người đứng đầu hệ thống Mặt trận đã tin tưởng giao phó; kể từ tháng 7.2025, Báo Đại đoàn kết ra mắt ấn phẩm Tinh hoa Việt bộ mới.
Đèo An Khê: Dấu ấn lịch sử

Đèo An Khê: Dấu ấn lịch sử

(GLO)- Nếu như Tây Bắc có “tứ đại danh đèo”: Mã Pí Lèng, Ô Quy Hồ, Pha Đin, Khau Phạ thì vùng duyên hải miền Trung lên đại ngàn Tây Nguyên cũng có “ngũ danh đèo”: An Khê, Phượng Hoàng, Khánh Lê, Ngoạn Mục, Violak.

default

Địa phận Phủ Hoài Nhơn được xác lập năm Hồng Đức thứ 2 (1471), là miền “viễn châu” khá rộng; sau hơn 550 năm, vùng đất rộng lớn lúc ban đầu được phân chia thành nhiều tỉnh thuộc Nam Trung bộ và Bắc Tây Nguyên. 
null