Năm 1965, lãnh đạo Đoàn văn công tỉnh về khu 4 (nay là các huyện Chư Păh, Ia Grai và một phần huyện Đức Cơ) tuyển diễn viên. Giọng hát của cô bé H’Blơng ở làng Khóp, xã B14 (nay là xã Ia Grăng, huyện Ia Grai) đã lọt vào tai Phó Trưởng đoàn phụ trách chuyên môn. Thế là cô bé Jrai 14 tuổi mang gùi, xin bố mẹ lên đường theo cán bộ Đoàn văn công vào căn cứ khu 10.
Lúc H’Blơng đến khu 10, Đoàn văn công tỉnh đóng ở suối Kpier. Cô bé được phân công về đội ca. Tuy nhiên, cô không chỉ hát mà còn tham gia cả múa, kịch… Và vì đội không có cấp dưỡng nên diễn viên đảm nhiệm luôn cả việc này. Các anh chị thay nhau đi kiếm thức ăn, kiếm củi và nấu cơm, cô bé H’Blơng cũng phải vào cuộc.
Cũng như các cơ quan khác trong căn cứ, Đoàn văn công cũng có một cái rẫy gọi là “rẫy văn công”. Trên rẫy, đội ca được giao cho phần đất ở trên cao để trồng lúa, bí đao, cà đắng; phía dưới đội nhạc, đội múa trồng mì… H’Blơng nhớ lần đầu đi đào mì, vì củ to, lại chui vào giữa đám rễ cây, hì hục mãi không moi được lên, cô bé bật khóc.
Năm 1967, H’Blơng cùng chị Lới đi bẻ măng bên sông Ba. Vừa thoát chết vì suýt trúng thò của bà con Bahnar mình gài khắp núi rừng chống giặc thì máy bay của địch ập đến. Chúng thả xuống 2 chiếc thùng màu vàng. Chưa hiểu đó là thứ gì thì toàn thân bỏng rát, 2 chị em vội bò xuống suối rửa mặt. Về lán cơ quan, người phồng lên như bong bóng, không thể nằm được.
Từ một cô bé Jrai nhút nhát, H’Blơng được các anh chị kèm cặp, dạy tiếng Việt, uốn nắn… để trở thành 1 trong 2 giọng ca chủ chốt của đoàn. Năm 1968, chị H’Blơng được về B3 (mặt trận Tây Nguyên) tập huấn 5 tháng. Dịp này, tiếng hát của H’Blơng lần đầu được Đài Tiếng nói Việt Nam thu âm với bài hát “Kông Lơpang” bằng cả tiếng Bahnar và tiếng phổ thông. Đây là một sáng tác của Y Khưu, ca ngợi ngọn núi Lơpang biết giữ của, biết che giấu bộ đội, biết tiêu diệt địch. Thời kỳ này, người sáng tác nhiều bài hát tiếng Bahnar, Jrai nhiều nhất là anh Ksor Đứa, đội văn nghệ khu 5 (nay là huyện Chư Prông). Đoàn văn công tỉnh cũng hát nhiều bài của anh.
Ngoài những tiết mục tự biên tự diễn của địa phương, H’Blơng thường mở radio nghe các bài hát cách mạng rồi tập theo. Chị đặc biệt thích những bài hát do ca sĩ Tường Vi thể hiện. Có những bài, nghe Tường Vi hát, chị tập ngay trong ngày để đêm ra diễn luôn. Những bài hát làm nên tên tuổi Tường Vi như “Cô gái vót chông”, “Tiếng đàn ta lư”… cũng chính là những “bài tủ” của cô gái Jrai H’Blơng.
Hồi ấy, đoàn thường phân thành “tổ 3-3”. Cứ 3 người làm thành một tổ đi lưu diễn. Mỗi khi có đoàn diễn lưu động, các địa phương làm sân khấu dã chiến, ánh sáng chủ yếu bằng đuốc. Đến năm 1972 mới có đèn măng sông. Mà đèn măng sông cũng chỉ được sử dụng khi có đông người tham gia biểu diễn. Đang biểu diễn, nghe tiếng máy bay là phải tắt đèn ngay.
Đối với chị H’Blơng, chuyến đi biểu diễn ở khu 3 năm 1970 cùng khẩu hiệu “Tiếng hát át tiếng bom” là một kỷ niệm không thể mờ phai. Chuyến ấy, tổ của chị H’Blơng, chị Byin và anh Vi (nhạc công) được giao nhiệm vụ đi diễn ở rừng Đe Kdăng phục vụ cán bộ, chiến sĩ mặt trận B3.
Đêm đó trời mưa, ta có mời thêm cơ sở trong làng ra xem văn công biểu diễn. Vì trong số cơ sở được mời có gián điệp nên hôm sau, địch cho trực thăng, tàu quạt… đến vây. Một du kích được phân công bảo vệ đoàn bị bắn chết ngay tại chỗ. Du kích khác bị mảnh đạn sượt qua đầu… Một ba lô đựng trang phục của văn công bị mất, chiếc đàn t’rưng để bên người chị H’Blơng cũng bị hỏng. Anh chị em chạy xuống suối nấp…
Dứt loạt đạn bom, mọi người mang nhạc cụ (1 violon, 1 đàn t’rưng) chạy. Dép cao su của chị H’Blơng tụt lên trên đầu gối. Một chiếc ruột nghé đựng gạo bị rớt, định quay lại nhặt thì thấy Mỹ đuổi theo… Sau trận này, địch tuyên truyền là đoàn văn công biểu diễn đêm ấy chết hết rồi, làm cả vùng căn cứ như ngừng thở.
Năm 1973, B3 rút một số diễn viên của các đoàn ở các tỉnh Tây Nguyên lên tập huấn. Một thời gian sau, Đoàn Văn nghệ quân giải phóng Tây Nguyên về tuyển diễn viên. Sau khi thử giọng bằng bài “Người lái đò trên sông Pô Kô”, chị H’Blơng được thông báo trúng tuyển. Thấy H’Blơng khóc không muốn đi, chú Đẳng (Bí thư Tỉnh ủy Trần Văn Bình) động viên: “Con đi đi, đi tham quan rồi về… mai mốt giải phóng, các con về mình lại gặp nhau”.
Câu chuyện của chị H’Blơng giúp tôi hiểu thêm về các văn công trong thời chiến; thêm kính phục, mến yêu những chiến sĩ trên mặt trận văn hóa-văn nghệ không kém phần ác liệt và có cả hy sinh. Chia tay chị rồi mà ánh đuốc lồ ô cùng những sân khấu dã chiến giữa rừng đêm như vẫn vương vấn trong tôi.