Xuất thân là nhà báo, phóng viên Báo Thừa Thiên-Huế rồi sang làm Tổng Biên tập Tạp chí Sông Hương rồi Chủ tịch Liên hiệp Văn học Nghệ thuật tỉnh Thừa Thiên-Huế, ông viết nhiều thể loại và đều có thành tựu. Nhưng cái cuối cùng đọng lại, làm nên Hồ Đăng Thanh Ngọc và khẳng định tên tuổi ông trên văn đàn, chính là thơ; dẫu như có người nói, chỉ cần sống ở Huế thôi, rất có thể ông đã trở thành nhà thơ rồi, huống chi ông sống trong cái nôi chữ nghĩa, là các tờ báo, như thế.
Văn xuôi của ông, chính xác là tùy bút, tản văn đều đậm chất thơ và gắn với văn hóa xứ Huế. Ông hiểu sâu về văn hóa vùng này và trình bày nó một cách hết sức ấn tượng bằng một thứ ngôn ngữ và hình ảnh cô đọng, chắt lọc. Nhưng với thơ, ông lại phóng khoáng bởi những suy tưởng đậm chất triết học.
Ông đã từng thể nghiệm nhiều cách, nhiều hướng, nhiều kiểu để vừa tiếp cận vừa trình bày cảm xúc thơ của mình, như thế này: “Gần như không còn một doi đất cho cú đáp chân của loài chim di cư/Không còn nữa cọng rêu cuối đông khi đường chân trời cứ dài ra mãi/Dù vậy cũng nên lên chiếc xuồng sắp chìm/Để trở lại con sông neo đậu mảnh hồn làng/Để có thể liệm mình vào trong lũy tre/Nghe dế giun hát trong cỏ/Bài ca vĩnh biệt”.
Nhưng rồi, tôi vẫn thích những xúc cảm khiến thơ ông vừa có sương lại vừa có lửa: “tiếng khèn đang lùa hết sương núi xuống khoảnh sân nhà gươl đứng quanh bếp lửa/và ché rượu nghiêng ngả cả vầng trăng/sao có thể làm vầng trăng say đến vậy?”...
Từng và vẫn đang theo đuổi sự đổi mới thơ quyết liệt, Hồ Đăng Thanh Ngọc là một trong những người chọn phong cách thơ tân hình thức để sáng tạo, tuy thế, mảng thơ truyền thống của ông vẫn có những thành công.
Nhà thơ Văn Công Hùng chọn và giới thiệu.
Người gọi chim
Tặng anh Trương Cảm ở rừng Bạch Mã
Trong lồng ngực anh đầy những tiếng chim
Gọi đàn lông vũ về trong nắng
Tiếng cu gù dài theo những rặng xanh
Những chim trĩ xòe đuôi rực rỡ.
Này bạn, hãy nhìn những cánh vút bay và tiếng hót thánh thót
Hãy nhìn ngắm, hãy lắng nghe đàn chim đang nói gì
Chúng nói đừng bắn chúng tôi cần hát ca
Đừng nướng chúng tôi trên ngọn lửa than
Chúng tôi cần hót cho đến chết.
Minh họa: T.N |
Người gọi chim về để đánh thức
Những mầm lá nhân đạo đang thưa thớt dần
Anh vẫn đi qua những cánh rừng
Với lồng ngực đầy tiếng chim.
Núi Đôi ngày nâu óng
Quảng Bạ sương mù và đá núi
Nàng Hoa Đào xuống trần theo tiếng đàn môi
Để lại đôi bầu sữa căng tròn nuôi con khôn lớn
Rót nghìn năm sau vào đáy mắt người.
Giọt nước mắt đã hóa thành sông Miện
Miên man chảy từ xa xưa cho đến tận bây giờ
Nước xanh ngắt nên cánh đồng xanh ngắt
Như mắt em xanh trong lúng liếng hoa tình.
Quảng Bạ khói lên những ngôi nhà đất
Những mùa yêu hoa ngọc cẩu rung rinh
Rượu ngô Nàng Đôn thơm lừng lưng núi
Trong mây trời sơn cước tiếng khèn vang.
Khoác áo núi Đôi một ngày nâu óng
Đã ngẩn ngơ đã say đắm muôn trùng
Tiếng em hát giữa đêm Then vằng vặc
Núi đồi say, quên thăm thẳm đường về.
Mưa Huyền Trân
Dáng liễu xuống thuyền xuôi Nam năm xưa
Rơi trong cơn mưa bóng mây tuyệt mù
Bảy sắc cầu vồng phương Nam phương Bắc
Không nâng bước chân con gái hải hồ.
Minh họa: H.T |
Trinh nữ chùng chiềng qua núi Hải Vân
Nước non ngàn dặm lệ tình chứa chan
Bước chân qua đèo mịt mùng câu lý
Hóa thạch sử xanh trong lòng muôn đời.
Vọng tiếng chèo khua trong ánh sao khuya
Chở hồn tình tự khuất màu lửa thiêng
Ngày tháng lênh đênh miên man sóng nước
Lẩn cõi mù tăm muôn trùng mộng sương.
Rồi từ thưở ấy hóa thành cơn mưa
Mưa từ Đồ Bàn mưa qua Ô Lý
Mưa ướt bài thơ giong trên sóng biển
Mưa ướt mênh mông tiếng vượn kêu chiều.
Ai hát ngàn xưa vọng tiếng bây giờ
Hòa bình muôn dân mơ tình ái ân
Cắc cớ làm chi vài dòng sử vội
Lớp sóng vỗ bờ hậu thế ăn năn…