Giữ vị chè Truồi

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

Làng Truồi (đoạn thuộc xã Lộc Điền, huyện Phú Lộc, thành phố Huế), bát nước chè trong veo chứa đựng từng giọt tinh túy của đất trời. Không để hương vị đặc trưng của chè Truồi bị lãng quên, các nông hộ nơi đây đang mở ra hướng đi đột phá cho loại đặc sản này.

1giuvi.jpg
Cây chè Truồi cho lá sau 3 năm phát triển.

Đặt chân đến làng Truồi, điều dễ dàng nhận thấy là hầu như nhà nào cũng có vườn chè. Hằng ngày, người phụ nữ hái, bó và bán chè tươi cho thị trường thành phố Huế và Đà Nẵng. Khi hỏi mua chè Truồi ở bất cứ chợ nào tại thành phố Đà Nẵng thì người bán đều biết. Lâu nay, thu nhập từ cây chè chỉ đủ đáp ứng tiền đi chợ mua thực phẩm ở mức bình thường cho một gia đình tại làng Truồi.

Từ chè tươi đến chè sấy

Cây chè ở làng Truồi là đặc sản, có từ lâu đời. Theo những người cao niên trong làng, tại một thư viện ở Paris có lưu giữ thông tin người Pháp đã từng xây dựng một xưởng chè tại vùng Truồi vào năm 1868. Từ đây, lá chè được sản xuất để bán sang Trung Quốc. Về sau, có một đồn điền (người Huế gọi là sở) chuyên trồng chè được lập nên. Hiện nay, tại vị trí đồn điền này vẫn còn một dấu tích rẫy chè.

Nếu như các vùng trồng chè ở huyện Đông Giang và huyện Núi Thành (tỉnh Quảng Nam) thường cho rằng, đọt lá non sẽ ngon nhất thì ở làng Truồi, lá già nằm sát thân cây mới là đặc sản. Kích thước lá chè Truồi chỉ bằng một nửa so chè các vùng khác. Mầu xanh mạ non, hơi ngả ánh vàng là điểm nhận dạng lá chè Truồi.

Hình ảnh vài chục bó chè nằm trên sạp nhỏ ngoài chợ Truồi gợi nên khung cảnh miền quê dân dã, đầy tình cảm. Người mua kẻ bán chẳng hề mặc cả giá mấy bó chè. Họ xem đây là thức uống thân quen, gắn bó với cả đời người. Có lẽ suy nghĩ mặc cả với giá của bó chè là mặc cả chính bản thân mình nên ai cầm bó chè lên đều im lặng mà gửi tiền.

Ông Hoàng Viết Thắng, chủ cơ sở sản xuất chè Truồi Ấn Lĩnh (thôn Lương Điền Thượng, xã Lộc Điền) cho biết: “Tôi là dân gốc làng Truồi. Bản thân tôi nghiên cứu cây chè này từ năm 2009. Đến năm 2016, tôi tìm ra được cách chế biến dòng trà sấy từ lá chè già này. Năm 2019, tôi bắt đầu mở rộng việc sản xuất. Sản phẩm của tôi được chính quyền thành phố Huế và huyện Phú Lộc động viên, hỗ trợ. Rất vui khi chè sấy được chứng nhận sản phẩm công nghiệp nông thôn tiêu biểu của miền trung vào năm 2021. Đến nay, chúng tôi đã bán sản phẩm của mình đến các thị trường trong nước và nhiều người tham gia ở khâu trung gian để xuất bán ra nước ngoài”, ông Thắng chia sẻ.

Xác định hướng sản xuất chuyên nghiệp, cơ sở sản xuất chè Truồi Ấn Lĩnh đầu tư dây chuyền theo tiêu chuẩn hiện đại và được quản lý bởi cơ quan chức năng của thành phố Huế. Quy trình sản xuất bao gồm: Thu hoạch - làm sạch nguyên liệu - làm héo - vò - sấy. Dù vậy, do nhu cầu thị trường còn ít nên cơ sở sản xuất bán cơ giới, chưa tự động hóa vì hiệu quả kinh tế vẫn còn thấp.

2giuvi.jpg
Chè sấy - hướng đi mới cho chè Truồi.

Mong vượt những rào cản

Khi nghiên cứu những rào cản trong hoạt động sản xuất và tiêu thụ chè Truồi, TS Nguyễn Văn Chung, Khoa Phát triển Nông thôn, Trường đại học Nông lâm - Đại học Huế nhận thấy, theo kết quả phân tích về thực trạng sản xuất và tiêu thụ thì các rào cản đang cản trở hoạt động sản xuất chè Truồi của nông hộ gồm: Thiếu người lao động, thiếu sự đầu tư trong sản xuất, giảm động lực trong phát triển sản xuất chè, sự phụ thuộc vào người thu gom và sự suy giảm, biến động về giá cả.

Tại làng Truồi, trung bình diện tích trồng chè là 0,2 ha/hộ, năng suất trung bình đạt 1,9 tấn/ha. Thu nhập trung bình 15,3 triệu đồng/ha. “Kết quả điều tra cho thấy hơn 80% hộ trồng chè cho rằng, thiếu người lao động đang là một trong những rào cản chính trong việc duy trì hay mở rộng diện tích trồng chè của nông hộ. Thậm chí, nó ảnh hưởng lớn đến ý định đầu tư hay xem hoạt động trồng chè là nguồn thu chính của nông hộ”, TS Chung đánh giá.

Hơn 57% hộ trồng chè đang đối mặt với vấn đề biến động và xu hướng suy giảm giá bán chè. Điều này tạo ra áp lực cho bà con khi nguồn thu nhập của họ bị bấp bênh. Thực trạng này khiến nhiều hộ dân có thể lựa chọn chuyển đổi cây trồng từ chè sang trồng cây keo hay tràm. Sự đan xen các rào cản này tạo thành cản trở lớn hơn cho các nông hộ trong việc phát triển cây chè Truồi tại địa phương.

Ông Thắng nhận thấy, dòng trà bancha vẫn còn xa lạ với người Việt Nam. Chỉ những người ưa thích chè xanh mới chú ý đến sản phẩm này. Đây là khó khăn lớn nhất của cơ sở sản xuất chè Truồi Ấn Lĩnh. Tuy nhiên, theo thời gian thì người tiêu dùng ngày càng chú ý đến dòng sản phẩm này. Ngay cả vùng văn hóa trà lâu đời như các tỉnh phía bắc cũng đã bước đầu có người dùng trà bancha. Là hộ sản xuất trà bancha, ông Thắng cho rằng, đó là điểm mạnh của mình. “Với lợi thế “một mình một chợ”, chúng tôi đang bán trà bancha với giá gần như ngang vốn để quảng bá cho dòng trà này. Do đó, về vấn đề giá cả, chúng tôi sẽ không bị ảnh hưởng quá nhiều”, ông Thắng nói.

Từ khi hoạt động đến nay, cơ sở sản xuất chè Truồi Ấn Lĩnh tạo việc làm cho 6 lao động tại địa phương. Trong thời gian tới, mục tiêu mà ông Thắng đặt ra là mở rộng được thị trường để nhiều người dân cùng tham gia chế biến sản phẩm. Thực tế cho thấy, cho dù nắm vững kỹ thuật chế biến cùng dây chuyền hiện đại nhưng nếu không có tính cộng đồng sẽ rất khó khăn.

3giuvi.jpg
Quy trình sấy lá chè.

Ở làng Truồi, phần nguyên liệu lá chè tươi có rất nhiều. Đơn cử, ông Nguyễn Bốn (thôn Đồng Xuân, xã Lộc Điền) được nhiều người đánh giá là kỹ tính nhất trong các hộ trồng chè nơi đây. Sở hữu vườn chè có diện tích 4.000 m2, sản lượng lá chè tươi từ vườn nhà ông Nguyễn Bốn luôn ở mức cao. Điều bà con mong muốn là bán được chè tươi để giải quyết đời sống kinh tế. Qua từng năm, thực trạng người dân tiếp tục phá bỏ những vườn chè cổ hàng trăm năm tuổi càng khiến ông Thắng cảm thấy lo lắng.

Nhìn nhận về tương lai của cây chè Truồi, TS Nguyễn Văn Chung gợi mở, hoạt động trồng chè tiêu tốn ít chi phí và được xem là hoạt động tạo thu nhập tăng thêm cho nông hộ. Tuy nhiên, kết quả sản xuất vẫn chưa tương xứng với danh tiếng và tiềm năng của nó. Để giải quyết được tình trạng này, chính quyền địa phương và nông hộ cần chú trọng đầu tư đa dạng hóa sản phẩm chè, gắn liền với xây dựng các mô hình liên kết theo chuỗi giá trị nhằm bảo đảm thị trường đầu ra. Hơn nữa, cần có sự kết hợp giới thiệu chè Truồi với các sản phẩm đặc trưng của địa phương như dâu Truồi, thanh trà, bánh ướt… để xây dựng thương hiệu.

Theo Bài và ảnh: MAI TRƯỜNG AN (NDO)

Có thể bạn quan tâm

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

(GLO)- Giữa bao thiếu thốn của vùng đất Pờ Tó, có một người thầy lặng lẽ, bền bỉ gieo yêu thương cho học trò nghèo. Thầy không chỉ dạy chữ mà còn khởi xướng nhiều mô hình sẻ chia đầy ý nghĩa như: “Tủ bánh mì 0 đồng”, “Mái ấm cho em”, “Trao sinh kế cho học trò nghèo”.

Trung tá Cao Tấn Vân (thứ 2 từ phải sang)-Phó Đội trưởng Phòng An ninh đối ngoại (Công an tỉnh Gia Lai) chụp ảnh cùng đồng đội. Ảnh: NVCC

Cống hiến thầm lặng vì sứ mệnh cao cả

(GLO)- Hành trình "gieo hạt" hòa bình bắt đầu từ những con người bình dị. Những cống hiến thầm lặng của họ vì sứ mệnh cao cả, góp phần tích cực đưa hình ảnh đất nước và con người Việt Nam yêu chuộng hòa bình đến bạn bè quốc tế.

Giới trẻ hào hứng tham gia các khóa học làm đèn lồng Trung thu thủ công

Hồi sinh Trung thu xưa

Giữa phố phường rực rỡ ánh đèn led, đèn ông sao và mặt nạ giấy bồi bất ngờ “tái xuất”, gợi lại ký ức những mùa trăng rằm xưa. Sự trở về của Trung thu truyền thống đã manh nha trong những năm gần đây, được nhiều người trẻ hào hứng đón nhận.

Gặp người lính Thành cổ năm xưa

Gặp người lính Thành cổ năm xưa

(GLO)- Trở về từ cuộc chiến khốc liệt ở Thành cổ Quảng Trị, cựu chiến binh Hồ Anh Hòa ít khi nhắc lại kỷ niệm chiến đấu với gia đình, con cháu. Bởi ông cho rằng, việc cầm súng lao vào cuộc chiến thời điểm ấy là trách nhiệm của một người con yêu Tổ quốc, “không nên công thần”.

Các cổ vật gốm sứ chén, bát, đĩa... được ngư dân nhặt được.

Làng cổ vật

Nép mình bên eo biển Vũng Tàu, thôn Châu Thuận Biển (xã Đông Sơn, huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi) không chỉ nổi tiếng là “làng lặn Hoàng Sa” với truyền thống bám biển, giữ chủ quyền, mà còn được ví như “kho báu” lưu giữ hàng loạt cổ vật từ những con tàu đắm hàng thế kỷ dưới đáy đại dương.

'Phu sâm' ở núi Ngọc Linh

'Phu sâm' ở núi Ngọc Linh

Nhiều doanh nghiệp và người dân lên ngọn núi Ngọc Linh hùng vĩ ở TP.Đà Nẵng thuê môi trường rừng để trồng sâm, mở ra một nghề mới để đồng bào Xê Đăng bản địa mưu sinh suốt nhiều năm qua: 'phu sâm', tức nghề cõng hàng thuê.

Thầy giáo làng đam mê sưu tầm đồ xưa cũ

Thầy giáo làng đam mê sưu tầm đồ xưa cũ

(GLO)- Không chỉ bền bỉ gieo con chữ cho học trò nghèo, thầy Võ Trí Hoàn-Hiệu trưởng Trường Tiểu học và THCS Quang Trung (xã Ia Tul, tỉnh Gia Lai) còn là người đam mê sưu tầm đồ xưa cũ. Với thầy, mỗi món đồ là bài học sống động về lịch sử dân tộc mà thầy muốn kể cho học trò.

Những cây đa trăm tuổi giữa đại ngàn Kon Ka Kinh

Những cây đa trăm tuổi giữa đại ngàn Kon Ka Kinh

(GLO)- Hàng trăm năm qua, những gốc đa lặng lẽ vươn mình trong rừng già Kon Ka Kinh, thấm đủ chuyện nhân sinh để hóa thành "chứng nhân" của đại ngàn. Quần thể đa cổ thụ không chỉ tạo nên cảnh quan kỳ vĩ, mà còn trở thành di sản tinh thần gắn bó với bao thế hệ cư dân sống dựa vào rừng.

Vào mùa xoay chín

Vào mùa xoay chín

(GLO)- Sau hơn 4 năm chắt chiu nhựa sống, hấp thụ tinh hoa đất trời, những cây xoay ở cánh rừng Kbang, Sơn Lang, Đak Rong đã bung hoa kết trái. Vào mùa xoay chín, người dân cũng đón “lộc rừng”, mang về nguồn thu nhập đáng kể.

Dệt những sợi kí ức giữa đại ngàn

Dệt những sợi kí ức giữa đại ngàn

Khi sản phẩm công nghiệp ngày càng tràn ngập thị trường thì ở vùng núi rừng Đưng K’nớ (xã Đam Rông 4, tỉnh Lâm Đồng) vẫn còn những người phụ nữ cần mẫn bên khung cửi, kiên nhẫn nhuộm từng sợi chỉ, dệt từng hoa văn. Những tấm thổ cẩm ra đời từ nơi đây là hơi thở níu giữ kí ức truyền thống đại ngàn.

Dặm dài Trường Lũy

Dặm dài Trường Lũy

(GLO)- Trường Lũy là một phức hợp bao gồm: lũy-bảo (đồn)-đường, hình thành từ thời chúa Nguyễn, xây dựng quy mô dưới triều Nguyễn; đi qua địa phận 3 tỉnh trước đây: Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định.

Tuyến 500kV Lào Cai - Vĩnh Yên, những ngày về đích: Cứ điểm dưới chân Hoàng Liên Sơn

Tuyến 500kV Lào Cai - Vĩnh Yên, những ngày về đích: Cứ điểm dưới chân Hoàng Liên Sơn

Trạm biến áp 500kV Lào Cai đang gấp rút hoàn thiện để trở thành điểm khởi đầu của tuyến đường dây 500kV Lào Cai - Vĩnh Yên. Đây là mắt xích chiến lược trong hành trình đưa nguồn điện dồi dào, đặc biệt là thủy điện ở Tây Bắc, vượt núi băng rừng về xuôi để hòa vào lưới điện quốc gia.

Viết giữa mùa măng rừng

Viết giữa mùa măng rừng

(GLO)- Vào tháng 7 đến tháng 11 hằng năm, khi những cơn mưa đầu mùa bắt đầu trút xuống, cũng là lúc người dân vùng cao nguyên Gia Lai lội suối, băng rừng để hái măng - thứ sản vật được người Jrai, Bana gọi là “lộc rừng”.

Vũ Văn Tam Lang & 50 cây violon đặc chế

Vũ Văn Tam Lang và 50 cây violon đặc chế

(GLO)- Cách đây vài năm, khi ngắm 22 cây đàn violon do ông Vũ Văn Tam Lang (phường An Phú, tỉnh Gia Lai) chế tác bằng tất cả tâm huyết được giới chuyên môn đánh giá cao, tôi thầm nghĩ, ông đã có thể tự hài lòng với những gì mình có.

Giữ mãi ngọn lửa hồng cách mạng

Giữ mãi ngọn lửa hồng cách mạng

(GLO)- Cuộc trò chuyện với hai nhân chứng sống - ông Hoàng Văn Tuyển và bà Huỳnh Thị Kim Xuyên đã đưa chúng ta trở lại những năm tháng kháng chiến đầy gian khổ, nơi tinh thần yêu nước và khát vọng cống hiến đã viết nên những trang đời đáng nhớ.

Xanh hóa các chốt dân quân thường trực

Xanh hóa các chốt dân quân thường trực

(GLO)- Khi mới xây dựng, các chốt chiến đấu dân quân thường trực biên giới chỉ có công sự, trận địa chiến đấu. Nhờ bàn tay lao động cần cù của cán bộ, chiến sĩ, chốt được phủ xanh bởi bồn hoa, cây cảnh, thảm cỏ, cây xanh và có vườn tăng gia, ao cá, tạo thêm nét đẹp ở nơi biên cương.

null