Giọng quê

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
(GLO)- Từ xưa, cha ông ta tối kỵ sự trêu chọc tiếng nói. Các cụ nhận định hoàn toàn đúng đắn và khuyên dạy con cháu rằng “chửi cha không bằng pha tiếng”.
1. Tiếng Việt có 3 phương ngữ chính là phương ngữ Bắc (Bắc bộ), phương ngữ Trung (Bắc Trung bộ), phương ngữ Nam (Nam Trung bộ và Nam bộ). Ngữ âm là yếu tố chính để hình thành phương ngữ. Theo định nghĩa đầy đủ thì ngoài chuyện lãnh thổ, vùng miền, một nhóm người nào đó cũng có thể tạo nên phương ngữ riêng nên ắt hẳn phương ngữ xã hội của xứ ta cũng rất đa dạng.
 Tranh minh họa: K.N.B
Tranh minh họa (nguồn internet)
Ngữ âm của dân Việt 3 miền luôn có luật bù trừ, “được cái này mất cái kia”. Người miền Bắc nói chung thường hay phát âm nhầm lẫn giữa N và L, R và D... Người Trung bộ, Nam bộ thì nhiều khi không phân biệt được từ có “g” hay không, dấu ngã và hỏi, âm D và V, C và T… Tuy nhiên, không phải ngữ âm mà từ vựng địa phương mới chính là cái gây nên chuyện bất đồng ngôn ngữ dù cùng nói tiếng Việt với nhau. Nghe người miền Bắc nói “chưa nỏ” (chưa khô), “bị rò” (bị lủng, thủng), dù đi cùng bối cảnh cụ thể cũng đôi khi khiến người nghe khó đoán. Người Nghệ An bảo “đọi cơm”, lần đầu nghe thì chắc hẳn dân Nam bộ ngỡ là “đói cơm” chứ chẳng phải “bát cơm”. Câu “hai cái dôn đập chắt ngoài cươi” (hai vợ chồng đánh nhau ngoài sân) làm nhiều người khác vùng Nghệ Tĩnh phải... bó tay. Miệt vườn miền Tây Nam bộ nói “hổm rày” (bữa giờ), “riết rồi” (mãi rồi), “mần ăn” (làm ăn)... sẽ gây khó lắm cho người đàng ngoài. Hai câu thơ đậm phương ngữ Quảng Trị: “Mô rú mô ri mô nỏ chộ/Mô rào mô roọng chộ mô nờ?” (Đâu núi đâu rừng đâu chẳng thấy/Đâu sông đâu biển thấy gì đâu) có làm choáng váng người đọc?
Xưng hô trong tiếng Việt cũng chẳng hề đơn giản, để gọi mẹ, tùy nơi mà má, mẹ, me, mệ, mợ, bu, u, vú, bầm, đẻ... Với cha thì bố, ba, thầy, cha, cậu, tía... Đối với họ hàng cũng theo quan hệ nội ngoại, ngôi thứ và tùy theo nơi mà có cách gọi khác nhau. Ngoài Bắc, chị của mẹ vẫn gọi là bác như bên cha, trong Nam thì chị hay em mẹ cũng đều được gọi là dì. Một cô gái Sài Gòn làm dâu xứ Bắc lỡ gọi chị của mẹ chồng là dì theo cách Nam bộ thì dễ mang tội bất kính lắm, hoặc giả gọi anh trai cả của chồng là anh Hai thì có khi phải nhận một sự “chỉnh huấn” từ nhà chồng.
2. Để người Việt thấu đáo tiếng Việt từng vùng miền cần một công trình nghiên cứu đồ sộ và vài bộ từ điển lớn để tham khảo chứ không đơn giản chút nào. Chẳng thế mà các nhà ngôn ngữ học đã nhận xét: Thế giới có tới 2.650 ngôn ngữ với hơn 7.000 tiếng địa phương, trong số này, tiếng Việt của chúng ta được nhiều người đánh giá đứng thứ 3 về độ khó (sau tiếng Trung Quốc và Ả Rập). Chắc rằng, sự đa dạng về ngữ âm và từ vựng địa phương là yếu tố làm nên độ khó ấy.
Là người Việt Nam, ai cũng “yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời, mẹ hiền ru những câu xa vời...” (Tiếng nước tôi-Phạm Duy), ai cũng yêu giọng nói của quê hương, bản quán. Một nhà văn gốc Bình Định đã ví von: “Giọng nẫu ríu rít như tiếng chim hót”, người gốc Bắc Trung bộ lại thường nói với nhau: “Tiếng mình trọ trẹ dễ thương anh hè”. Tác giả Lê Duy Ngọc cũng có ý rất hay trong bài “Giọng Huế-Gần cảm xa thương” rằng: “Người dân ở xứ nào cũng yêu mến giọng quê của mình. Dù là người Bắc, người Nam hay người miền Trung, cứ nghe giọng nói quê mình là thấy động lòng. Người Quảng động lòng giọng Quảng, người Huế động lòng giọng Huế… Giọng quê qua miệng nói, qua tai nghe rồi đi qua tim. Giọng quê theo máu đi đến toàn thân, len lỏi qua từng tế bào rồi đi đến trú ngụ trong tâm hồn của mỗi con người”.
Một người xa xứ có thể nói 2 giọng để tạo thuận tiện trong giao tiếp, nhưng khi về nhà thì vẫn rặt tiếng quê. Trường hợp này đa phần rơi vào những người có phương ngữ Bắc Trung bộ và còn trẻ, năng động. Chúng ta hoàn toàn thấy được tính nghiêm túc trong lựa chọn của họ. Nhưng sẽ khó chấp nhận khi nhiều người tìm cách bắt chước ngữ âm khác mình để chế giễu, cười đùa. Chuyện này đang nặng nề lắm! Nhiều người không phân biệt được nói ngọng và ngữ âm, mà chuyện không nói chuẩn do khuyết tật cấu trúc phát âm của cơ thể của một người nào đó cũng không đáng nhận sự châm chọc. Đối mặt với nhau, người ta sẵn sàng pha tiếng của người đối thoại mà cười cợt. Tình trạng này đang trở nên khá phổ biến, “nạn nhân” dù bực mình nhưng cũng đành chậc lưỡi cho qua. Người ta quên rằng, đây là một hành vi thiếu văn hóa, một sự xúc phạm vùng miền; trên thực tế, kết quả là đã có trường hợp dẫn đến ẩu đả. Có lẽ, đây là những điều cần được suy ngẫm một cách nghiêm túc. 
 NGUYỄN SƠN

Có thể bạn quan tâm

Lễ cầu mưa trên đỉnh núi thần: Di sản đặc biệt

Lễ cầu mưa trên đỉnh núi thần: Di sản đặc biệt

(GLO)- Trên đời có thực sự tồn tại những con người có quyền năng hô mưa gọi gió? Chính hiện thực và truyền thuyết hư ảo đan cài vào nhau khiến lễ cầu mưa của Yang Pơtao Apui ở thung lũng Ayun Hạ trở thành một hiện tượng đặc biệt, hấp dẫn bởi sự linh thiêng, huyền bí.

Tự hào con cháu Hai Bà Trưng

Tự hào con cháu Hai Bà Trưng

(GLO)- Đền thờ Hai Bà Trưng là di tích quốc gia đặc biệt, tọa lạc tại thôn Hạ Lôi, xã Mê Linh, huyện Mê Linh, TP. Hà Nội. Đây cũng là quê hương của Hai Bà Trưng-những nữ tướng anh hùng đã nổi dậy chống quân xâm lược nhà Hán.

Phục dựng lễ mừng lúa mới của người Jrai. Ảnh: Lam Nguyên

Nghĩ suy trong mùa lễ hội

(GLO)- Lễ hội là sinh hoạt văn hóa dân gian đậm tính cộng đồng và được tổ chức khắp mọi miền đất nước. Ngoài 2 dân tộc bản địa Jrai và Bahnar, trên địa bàn tỉnh Gia Lai còn có 42 dân tộc anh em khác sinh sống với bản sắc văn hóa lễ hội độc đáo.

Nối nghề

Nối nghề

Lần đầu tiên nghệ nhân Y Pư giới thiệu nghề làm gốm thủ công tại Bảo tàng tỉnh trong khuôn khổ Tuần lễ Văn hóa - Du lịch tỉnh Kon Tum lần thứ 3 (năm 2016) đã để lại ấn tượng đẹp.

Ông Đinh Plih sắp xếp bộ cồng chiêng và các vật dụng sẵn sàng đem theo khi đi trình diễn, quảng bá văn hóa dân tộc Bahnar. Ảnh: N.M

Đinh Plih: Tự hào “vốn liếng” văn hóa Bahnar

(GLO)- “Ý nghĩa của công việc không phải chỉ nằm ở chỗ tiền bạc mà còn ở nhu cầu về tinh thần, biểu hiện của giá trị, một vốn liếng để tự hào”. Câu nói này thật đúng đối với ông Đinh Plih (xã Tơ Tung, huyện Kbang, tỉnh Gia Lai). Với ông, hạnh phúc đơn giản là bản thân được sống trọn với đam mê.

Sức sống của lễ hội Tây Nguyên

Sức sống của lễ hội Tây Nguyên

(GLO)- Hoa pơ lang thắp lửa cuối khu nhà mồ làng Pyang, thị trấn Kông Chro, tỉnh Gia Lai. Nổi bật giữa lớp lớp nhà mồ cũ là 3 nhà mồ mới làm. Đó là những dấu hiệu mùa lễ hội giữa núi rừng Trường Sơn.

Lễ bỏ mả của người Bahnar ở Kông Chro

Lễ bỏ mả của người Bahnar ở Kông Chro

(GLO)- Từ 21 đến 23-2, làng Pyang (thị trấn Kông Chro, huyện Kông Chro, tỉnh Gia Lai) tưng bừng tổ chức lễ bỏ mả-một trong những lễ hội lớn và đặc sắc nhất của người Bahnar Đông Trường Sơn

Gìn giữ giai điệu của đá

Gìn giữ giai điệu của đá

Trong dịp đầu xuân, tại chương trình trình diễn, trải nghiệm di sản văn hóa diễn ra ở Bảo tàng – Thư viện tỉnh, người dân và du khách có dịp thưởng thức những giai điệu của đá được trình diễn bởi nghệ nhân ưu tú A Thu (50 tuổi) ở thôn Đăk Rô Gia (xã Đăk Trăm, huyện Đăk Tô).

Lễ báo hiếu: Thơm thảo tấm lòng con cái

Lễ báo hiếu, thơm thảo tấm lòng con cái

(GLO)- Trong đời sống sinh hoạt hàng ngày, người Bahnar luôn nhắc nhau: “Phải kính trọng cha mẹ như mặt trăng, kính trọng ông bà như mặt trời”. Khi đã trưởng thành, con cái đều nghĩ đến việc tổ chức lễ báo hiếu cha mẹ (teh nhung ăn kră).

Nâng cao chất lượng các danh hiệu văn hóa ở cơ sở

Nâng cao chất lượng các danh hiệu văn hóa ở cơ sở

(GLO)- UBND tỉnh Gia Lai ban hành QĐ số 60/2024/QĐ-UBND quy định chi tiết tiêu chuẩn xét tặng danh hiệu “Gia đình văn hóa”, “Thôn, tổ dân phố văn hóa”, “Xã, phường, thị trấn tiêu biểu” để hướng dẫn thực hiện, bảo đảm phù hợp với đặc thù văn hóa và tình hình kinh tế-xã hội của địa phương.