'Giải mã' tiền cổ thời Tây Sơn

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
Sau khi Nguyễn Huệ lãnh đạo quân Tây Sơn đánh thắng thù trong, giặc ngoài, triều đại Tây Sơn tập trung ngay vào việc xây dựng đất nước. Và đúc tiền là việc làm được triều đại Tây Sơn rất quan tâm.
Tiền Quang Trung thông bảo và Cảnh Thịnh thông bảo. ẢNH: NGUYỄN THANH QUANG
Tiền Quang Trung thông bảo và Cảnh Thịnh thông bảo. ẢNH: NGUYỄN THANH QUANG
Vua Quang Trung ban chiếu khuyến nông, phát triển công - thương nghiệp, mở rộng việc buôn bán trong lẫn ngoài nước. Trong phát triển kinh tế thì đúc tiền là việc làm được triều đại Tây Sơn rất quan tâm. Ba đời vua triều đại Tây Sơn đã cho đúc tiền là: Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Quang Toản. Tiền thời Tây Sơn được chia làm 9 loại và căn cứ lưng tiền có các dấu hiệu khác nhau, người ta chia ra làm nhiều kiểu.
Năm 1778, Nguyễn Nhạc xưng đế, lấy niên hiệu là Thái Đức. Trong 15 năm trị vì, Nguyễn Nhạc cho đúc nhiều tiền đồng nhưng chỉ có một loại mang niên hiệu Thái Đức thông bảo. Tiền Thái Đức lưu hành trong phạm vi hẹp, cho đến nay giới khảo cổ tìm thấy chủ yếu ở các tỉnh xứ Đàng Trong (từ Quảng Nam đến Bình Thuận). Mặt tiền đúc nổi 4 chữ Thái Đức thông bảo, chữ viết chân phương.
Tiền Cảnh Thịnh thông bảo. ẢNH: NGUYỄN THANH QUANG
Tiền Cảnh Thịnh thông bảo. ẢNH: NGUYỄN THANH QUANG
Vì loại tiền này mỏng dẹp, có gờ viền mép hơi lớn và viền lỗ vuông rộng nên chữ viết bị thu nhỏ không nổi rõ, do đó chữ bị mờ khó đọc. Kỹ thuật đúc không sắc sảo, chất đồng không đẹp. Đường kính đồng tiền từ 22,5 mm đến 24 mm, lưng tiền có các dấu hiệu khác nhau. Tiền Thái Đức lưu hành song song cùng với tiền của vua Chiêu Thống, Quang Trung và Quang Toản.
Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế năm 1788, lấy niên hiệu là Quang Trung, đề nghị với nhà Thanh mở cửa ải, thông thương chợ búa, khiến cho hàng hóa không ngừng hoạt động, làm lợi cho sự tiêu dùng của dân. Để phát triển kinh tế, vua Quang Trung đã cho đúc 4 loại tiền rất nhiều kiểu với nhiều dấu hiệu khác nhau ở lưng tiền.
Loại 1: mặt tiền đúc nổi 4 chữ Quang Trung thông bảo, viết chân phương. Viền mép và lỗ rộng nên chữ viết bị thu nhỏ. Chữ đúc nổi không rõ, vì tiền mỏng nên có những chữ bị mờ, khó đọc. Gờ mép và viền lỗ ở cả 2 mặt tiền và lưng tiền không nổi rõ. Tiền làm bằng đồng đẹp hơn tiền Thái Đức. Đường kính đồng tiền 25 mm, lưng tiền có nhiều kiểu khác nhau.
Loại 2: mặt tiền đúc nổi 4 chữ Quang Trung đại bảo, chữ bảo viết giản thể, 3 chữ còn lại viết chân phương. Đường kính 25 mm, lưng tiền để trơn.
Loại 3: mặt tiền đúc nổi 4 chữ Quang Trung thông bảo, chữ bảo viết giản thể. Đường kính 25 mm, lưng tiền để trơn, có những vòng tròn nhỏ tiếp tuyến ở phía trong của gờ viền mép.
Loại 4: mặt tiền đúc nổi 4 chữ Quang Trung thông bảo, chữ viết chân phương. Lưng tiền đúc nổi hai chữ An Nam, chữ viết theo lối chữ thảo.
Tiền Thái Đức thông bảo. ẢNH: NGUYỄN THANH QUANG
Tiền Thái Đức thông bảo. ẢNH: NGUYỄN THANH QUANG
Tiền Quang Trung thông bảo được phát hiện rất nhiều trên khắp đất nước, cả vùng biên giới hay hải đảo xa xôi, đặc biệt là ở các thương cảng lớn.
Năm 1793, Nguyễn Huệ mất, con trai là Quang Toản lên ngôi lấy niên hiệu 2 lần: Cảnh Thịnh (1793-1801) và Bảo Hưng (1801-1802). Quang Toản cũng cho đúc 4 loại tiền, nhưng số lượng không nhiều như tiền Quang Trung. Tuy nhiên, thời kỳ này đã cho đúc những loại tiền đồng cỡ lớn dùng để ban thưởng hoặc cũng có thể tiêu dùng, mà các đời vua Thái Đức, Quang Trung không đúc.
Gồm các loại tiền:
Loại 1: mặt tiền đúc nổi 4 chữ Cảnh Thịnh thông bảo viết theo kiểu chữ chân phương. Có viền gờ mép rộng, lỗ vuông lớn.Hình dạng, kích thước chữ viết đều giống như tiền Quang Trung.Nhưng tiền đúc dày hơn và chất liệu đồng tốt hơn. Đường kính đồng tiền từ 22,5 mm đến 25 mm, lưng tiền để trơn hoặc có những dấu hiệu khác, giống như tiền thời Quang Trung.
Loại 2: mặt tiền đúc nổi 4 chữ Cảnh Thịnh thông bảo, chữ chân phương, rõ ràng và đẹp. Gờ viền mép có hình chữ T liên tiếp ngược chiều nhau. Đường kính lớn hơn các loại tiền khác: 26 mm. Tiền đúc dày, chất liệu đồng rất đẹp. Lưng tiền cũng có viền mép hình chữ T liên tiếp ngược chiều nhau giống như mặt tiền. Trên lỗ vuông 2 bên phải trái có đúc nổi hình rồng bay trong mây và dưới lỗ vuông có đúc nổi 2 con cá đang bơi trong nước.
Loại 3: tiền đồng lớn, đường kính 45 mm. Mặt tiền đúc nổi 4 chữ Cảnh Thịnh thông bảo, viết chân phương, có viền mép hình chữ T liên tiếp ngược chiều nhau. Tiền đúc dày, kỹ thuật đúc đẹp.
Loại 4: mặt tiền đúc nổi 4 chữ Bảo Hưng thông bảo. Đến nay tiền Bảo Hưng thông bảo vẫn chưa tìm thấy.
Tiền Quang Trung thông bảo. ẢNH: NGUYỄN THANH QUANG
Tiền Quang Trung thông bảo. ẢNH: NGUYỄN THANH QUANG
Ở Bình Định, tiền cổ thời kỳ Tây Sơn được phát hiện khá nhiều, địa bàn tìm thấy là những khu vực đồn trú quân lương của nghĩa quân Tây Sơn, cửa biển, bến sông và những nơi giao lưu, trao đổi, mua bán.
Tuy tồn tại trong thời gian ngắn (1778-1802), nhưng triều đại Tây Sơn đã cho đúc nhiều kiểu, loại tiền. Việc phát hiện các loại tiền Tây Sơn trên mọi vùng của đất nước ta chứng tỏ rằng lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam tiền Tây Sơn chiếm số lượng áp đảo tất cả các loại tiền Việt Nam và cả tiền Trung Quốc đang lưu hành đồng thời. Đây là một bằng chứng rất đáng chú ý về chính sách kinh tế của nhà Tây Sơn. Các vua triều đại Tây Sơn, nhất là Quang Trung đã ra sức xây dựng một nền kinh tế độc lập và giàu mạnh.
Theo Nguyễn Thanh Quang (TNO)

Có thể bạn quan tâm

Gương mặt thơ: Trúc Phùng

Gương mặt thơ: Trúc Phùng

(GLO)- Đây là số cuối cùng của chuyên mục “Gương mặt thơ” trên báo Gia Lai Cuối tuần do tôi phụ trách.Chuyên mục đã đi được hơn 2 năm (từ tháng 10-2022), tới nay đã giới thiệu tác phẩm của hơn 100 nhà thơ nổi tiếng trên thi đàn cả nước.

Người Mường ở xã Ia Lâu “giữ lửa” cồng chiêng

Người Mường ở xã Ia Lâu “giữ lửa” cồng chiêng

(GLO)- Rời quê vào thôn Đà Bắc (xã Ia Lâu, huyện Chư Prông) lập nghiệp đã hơn 30 năm, nhưng cộng đồng người Mường vẫn luôn duy trì và nỗ lực bảo tồn văn hóa cồng chiêng của dân tộc. Với họ, “giữ lửa” cồng chiêng chính là cách làm thiết thực nhất tạo sự gắn kết bền chặt với quê hương, nguồn cội.

Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên là di sản có tiềm năng khai thác kinh tế du lịch. Ảnh: Minh Châu

Những ngày làm hồ sơ “Không gian văn hóa cồng chiêng”

(GLO)- Ngày 23-3-2004, Bộ trưởng Bộ Văn hóa-Thông tin (nay là Bộ Văn hóa-Thể thao và Du lịch) ban hành quyết định về việc xây dựng hồ sơ ứng cử quốc gia “Vùng văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên” là di sản tiếp nối trình UNESCO công nhận là kiệt tác di sản truyền khẩu và phi vật thể của nhân loại.

Già làng Đônh (bìa phải) giới thiệu về chiếc nỏ của người Bahnar. Ảnh: R.H

Điểm tựa Kon Brung

(GLO)- Không chỉ tâm huyết với công tác hòa giải, già làng Đônh (SN 1960; làng Kon Brung, xã Ayun, huyện Mang Yang) còn rất tâm huyết với việc bảo tồn bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc. Với bà con, ông là điểm tựa của làng Kon Brung.

Về miền di sản

Về miền di sản

(GLO)- Những địa danh lịch sử, điểm di sản là nơi thu hút nhiều người đến tham quan, tìm hiểu. Được tận mắt chứng kiến và đặt chân lên một miền đất giàu truyền thống luôn là trải nghiệm tuyệt vời và xúc động đối với nhiều người.

Mừng lúa mới trên cao nguyên

Mừng lúa mới trên cao nguyên

(GLO)- Sau khi thu hoạch mùa vụ và đưa lúa về kho, đồng bào Jrai náo nức với lễ mừng lúa mới. Nghi lễ nông nghiệp cổ truyền độc đáo này đã được bà con duy trì từ bao đời nay.

Biến sản phẩm văn hóa thành quà tặng du lịch

Biến sản phẩm văn hóa thành quà tặng du lịch

(GLO)- Quà lưu niệm từ sản phẩm văn hóa vừa là “sứ giả” du lịch, vừa góp phần đem lại thu nhập cho người dân. Việc tổ chức các cuộc thi tay nghề đan lát, dệt thổ cẩm nhằm tìm kiếm sản phẩm đặc sắc làm quà tặng đã góp phần nâng cao đời sống người dân và thúc đẩy du lịch nông thôn phát triển.