Đảo chắn gió-Kỳ 2: Biển chờ

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
Nghỉ trăng, đàn ông Cù Lao Xanh uống rượu, đàn bà ngồi tán gẫu. Nhưng cũng chẳng phải vì nghỉ trăng, vì năm nay biển đói. Bà Huỳnh Thị Dân ngó ra chiếc ghe đậu xa xa của gia đình, lắc đầu: “Biển thấy càng ngày càng cạn kiệt. Mấy năm trước đi suốt, tới chiều 30 mới về rồi xách đồ cúng. Đón Giao thừa xong là tôi lấy xô cá vào đất liền bán. Năm nay thì nghỉ rồi, vì không có cá”.

Hiện giờ một ngày đã có nhiều chuyến cano từ đất liền ra đảo.
Hiện giờ một ngày đã có nhiều chuyến cano từ đất liền ra đảo.
Đàn bà đi lựa
Ở Cù Lao Xanh, người ta gọi đi biển là đi lựa. Đàn bà đi lựa như bà Dân hiếm lắm, nếu không nói là gần như duy nhất.  Từ quê Phú Yên về làm dâu Cù Lao Xanh đã 27 năm, nhưng cũng hơn 20 năm bà theo chồng - ông Nguyễn Văn Hiền - lên tàu ra biển. Cũng đánh đông dẹp bắc khắp Biển Đông, ngắn thì sáng đi chiều về, dài thì 10 ngày đến một vài tháng. “Ổng kêu được bạn thì tôi ở nhà, mà không kêu được bạn thì đi”, bà Dân kể về lý do đi biển trái khoáy. Dân đi biển vốn kiêng phụ nữ lên tàu, nhưng ở đất Quy Nhơn, những người đàn bà lênh đênh sóng nước hóa ra chỗ nào cũng gặp. Không phải vì bà ham biển, mà vì mỗi ngày kiếm bạn đi biển mỗi khó. “Giờ kiếm được 3 - 4 người là mừng, mà có 3 - 4 người thì tôi vẫn phải đi đó”, bà cười. Dân Cù Lao Xanh sống nhờ biển, không đi biển biết lấy gì ăn khi mà đảo gần bờ đấy mà gần như biệt lập. Mấy năm gần đây, bà lại càng phải đi nhiều, dù cậu con trai lớn lên cũng đã theo nghề biển của cả nhà. “Kêu bạn giờ khó lắm. Nhà nào còn đi biển thì họ tự đi chứ không đi cùng nhau như xưa nữa”, bà bảo.  Năm ngoái tới giờ, bà cũng theo chồng đi miết từ tháng 7 tới tận tháng Giêng. 
Người hàng xóm ngồi cạnh bà Dân, chép miệng: “Bả đi giờ như đàn ông vậy đó”, đến nỗi chòm xóm phải gọi bà là “ông Dân”. Bà chỉ đang phiền lòng là: “Mùa này mấy năm trước no lắm, biển cá đủ lại hết. Nhưng hai năm nay biển mực cá hết. Đâu biết tại sao. Xưa có cá hố, cá rựa. Mấy năm nay toàn cá rác, con mực cũng hiếm”. Thời kỳ dư dả nhất là những năm 2012 - 2013, cũng đủ để ông bà nuôi ba đứa con khôn lớn. Thời đó bụng bầu vượt mặt, nói như chính chủ là “bụng thè lè” mà “ông Dân” vẫn liều lên thuyền, chỉ chịu về bờ lúc chỉ cách ngày dự sinh gần tháng. Cuối những năm 90, chưa có điện thoại di động, nhà cũng chẳng gắn điện thoại bàn, ông bà đi biền biệt, cậu con trai cứ bắc ghế trèo lên ban công hướng ra biển ngóng mẹ về. Con cái hầu như gửi gắm nhà nội trông nom. Chị chồng bà bảo thương chảy nước mắt. Nhưng nghề biển là vậy. “Có sóng có gió chứ mà cũng ráng đi mới có tiền nuôi con mà. Con nó nhớ nó khóc mà mình về không được ráng chịu. Thi thoảng về hai ba ngày rồi lại đi tiếp”, bà Dân tư lự. 
Năm 2014, cả đảo có 127 phương tiện tàu thuyền có động cơ. Nhưng ngay cả thời điểm năm 2014, những bỏ ngỏ về nghề cá cũng đã thường trực trong câu chuyện của những ngư dân. Anh Phong, Chánh văn phòng UBND xã bảo có những chuyến đi cả tháng mà về trừ đi chi phí mỗi người chỉ được lãi 600 nghìn tới một triệu đồng. Một nhóm bạn, vốn đi biển quen với nhau nhiều năm, khi anh Phong dẫn chúng tôi đến cũng đang âu lo về những luồng cá ngày một cạn. Họ đã không còn đánh cá xa bờ từ lâu lắm, chỉ còn quanh quẩn vài tiếng với cá cơm, như một thú vui cho đỡ nhớ biển mà thôi. Năm 2021, theo thống kê mới nhất, Nhơn Châu chỉ còn lại 61 ghe thuyền có động cơ. Bà con chuyển sang thuyền thúng composite, bắt tạm cá rác trong ngày. 
Ngó ra bãi ghe trước mắt, bà Dân thở dài: “Giờ đổ tới lui cá cũng hiếm. Nhiều nhà bán thuyền vì thu hoạch không đủ tiền chi”. Giữ được cả ba đứa con ở lại đảo làm nghề biển như nhà bà cũng là hiếm lắm. 
Khoản, anh thanh niên 30 tuổi, cũng đã phải bán chiếc ghe ba anh để lại. Khoản đi biển từ nhỏ, nghề giỏi nhất là nghề biển, nhưng anh cũng chỉ duy trì được vài năm sau khi ba mất, vì không rủ được người đi biển cùng. “Người ta đi biển có đôi”, làm gì có ai một mình giong buồm được. Khoản đi làm cho các ông chủ khác, theo tàu ra tận Trường Sa, Hoàng Sa. Cũng có lúc chạnh lòng vì từ vị trí chủ ghe, thành đi làm thuê, nhưng anh bảo không khác được.
Nhà anh Lê Văn Dưỡng coi như có ghe to nhất nhì đảo, nhưng lâu lâu nay cũng chỉ đi biển gần. Ghe nhà anh Dưỡng lúc mua đã chừng 500 - 600 triệu đồng. “Mỗi năm tu bổ hai lần, mỗi lần cũng mất 70 - 80 triệu đồng”, vợ anh Dưỡng nhẩm tính. Tốn kém thế nhưng cá thu về đợt này kém. “Xưa mình đánh cá còn mang ra tận Quy Nhơn bán. Giờ cả chợ đảo này cũng hiếm cá. Mua cá cơm cũng không có. Toàn cá rác thôi”, vợ anh Dưỡng thở dài. 
Cũng không nói đâu xa, chị Lý nói muốn ăn hải sản ở đảo phải đặt trước, các công ty du lịch họ chuẩn bị, chứ ra chợ đảo thì không có sẵn đâu: “Có mực, cá thu là chính. Cũng không nhiều”. 
Giữa bốn bề mênh mông nước biển, nhưng lựa chọn hải sản lại ngày một thu hẹp đáng kể. Những cuộc chia tay biển, mỗi lúc một nhiều hơn. 
Đảo mới
Bà Dân đang bảo lo đứa con trai tìm vợ. Năm xưa chồng bà nhân nghỉ trăng mà về bờ đi xem hát, rồi gặp và cưới bà. Nhưng ở đảo bây giờ, con trai khó kiếm vợ. “Đa số con gái ở đây nó đi ra bờ nó làm, lấy chồng xa không à, có thanh niên ở nhà giữ đảo không hà. Con trai mình chưa lấy vợ sao không lo, bữa nay con gái hiếm mà con trai dư mà”, bà cười xòa, “Giờ xấu tốt cũng kiếm đứa con dâu chứ. Con gái ở đây kén lắm”. Anh Dưỡng cũng phải tới khi nhờ người quen mai mối mới gặp được người vợ bây giờ, bởi nghề lênh đênh ngày tháng, chẳng gặp được đối tượng nào lâu dài.
Có điều đảo từ khi có điện đã vui hơn trước. Ngoài tiếng karaoke bù những ngày chưa có điện, nhiều công trình mới đã mọc lên. Năm 2014, xã có khoảng hơn 2.000 hộ dân, với hơn 7.000 nhân khẩu. Từ năm 2000 đến 2013, đã có hơn 500 nhân khẩu do điều kiện quá khó khăn bỏ đảo chuyển vào đất liền sinh sống. Năm 2021, toàn xã Nhơn Châu có khoảng 564 hộ, với khoảng 2.300 nhân khẩu. Giảm dân số âu cũng là câu chuyện thường thấy ở những hòn đảo nhỏ. Nhưng Nhơn Châu không còn biệt lập nữa. Ngoài tàu gỗ, cano chở khách ra đảo đã chuyên nghiệp hóa mỗi ngày 4 - 5 chuyến. Những khách sạn, homestay đã lục tục mọc lên, cả những người nơi khác đến tìm kiếm cơ hội đầu tư.
Một lớp trẻ bắt đầu ở lại đảo, thay vì đi về bờ tìm kiếm cơ hội khác. Như anh ngư dân tên Khoản bảo, anh ở lại đảo vì không có ai trông nom mẹ. Ngoài đi biển, anh có thêm thu nhập từ việc đưa khách du lịch đi lặn ngắm san hô. Dù công việc dẫn khách đi tour cũng đổ mồ hôi chẳng kém những chuyến ra khơi. Anh cũng đang học cách chụp ảnh đẹp, học hỏi dần cách nói chuyện để giới thiệu du lịch: “Mình không giỏi ăn nói như hướng dẫn viên ngoài bờ, cũng khó lắm”. Bù lại, Khoản giỏi bơi lặn và am hiểu hiếm có về vùng biển mình sinh ra và lớn lên. 
Nhiều công ty du lịch đã tìm đến Cù Lao Xanh, nhanh chóng tạo ra các tuyến điểm hấp dẫn. Mấy năm trước, trong một tọa đàm du lịch, khi đặt vấn đề tại sao không khai thác tuyến Cù Lao Xanh, giám đốc một công ty du lịch miền trung tần ngần rằng đảo đó không có bãi cát: “Đưa khách ra đảo mà không có chỗ cho họ tắm biển thì họ không đi đâu”. Ông giám đốc nuối tiếc dải cát trắng phau đẹp rực rỡ của Cù Lao Xanh hơn chục năm trước, khi mà những thay đổi từ cả thiên nhiên lẫn con người chưa biến, chưa tác động đến hòn đảo này. Nhưng sự đã rồi, dải cát không thể hồi sinh. Có điều, sau nhiều năm, những điểm check-in mới đã hình thành, cũng có cả những doi cát mới, đủ để người ta ngắm san hô, bơi lặn, chụp ảnh cho hành trình một ngày dã ngoại. 
Buổi chiều ở Cù Lao Xanh, biển trong veo. Những đứa trẻ thoải mái lặn ngụp, bật tanh tách trong làn nước. Chợ Cù Lao Xanh lúc ba giờ, mùa này cũng không mấy xôn xao. Nghe đâu những bữa ăn thịnh soạn cho khách du lịch đều do các công ty đặt và chuẩn bị trước cả. Chứ trên đảo cũng chưa có nhà hàng nào.
Những chiếc ghe vẫn nằm yên lặng ngoài xa, chờ một mùa cá nào đó để lại được vươn khơi. Quách Tấn từng viết cửa Quy Nhơn là nơi chứng kiến bao cuộc hưng vong trong lịch sử, há gì mà hòn đảo chắn gió trước mỗi dâu bể kia, lại bớt đi được thăng trầm?
Theo Phương Mai-Thanh Tâm (NDĐT)

Có thể bạn quan tâm

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

(GLO)- Giữa bao thiếu thốn của vùng đất Pờ Tó, có một người thầy lặng lẽ, bền bỉ gieo yêu thương cho học trò nghèo. Thầy không chỉ dạy chữ mà còn khởi xướng nhiều mô hình sẻ chia đầy ý nghĩa như: “Tủ bánh mì 0 đồng”, “Mái ấm cho em”, “Trao sinh kế cho học trò nghèo”.

Trung tá Cao Tấn Vân (thứ 2 từ phải sang)-Phó Đội trưởng Phòng An ninh đối ngoại (Công an tỉnh Gia Lai) chụp ảnh cùng đồng đội. Ảnh: NVCC

Cống hiến thầm lặng vì sứ mệnh cao cả

(GLO)- Hành trình "gieo hạt" hòa bình bắt đầu từ những con người bình dị. Những cống hiến thầm lặng của họ vì sứ mệnh cao cả, góp phần tích cực đưa hình ảnh đất nước và con người Việt Nam yêu chuộng hòa bình đến bạn bè quốc tế.

Giới trẻ hào hứng tham gia các khóa học làm đèn lồng Trung thu thủ công

Hồi sinh Trung thu xưa

Giữa phố phường rực rỡ ánh đèn led, đèn ông sao và mặt nạ giấy bồi bất ngờ “tái xuất”, gợi lại ký ức những mùa trăng rằm xưa. Sự trở về của Trung thu truyền thống đã manh nha trong những năm gần đây, được nhiều người trẻ hào hứng đón nhận.

Gặp người lính Thành cổ năm xưa

Gặp người lính Thành cổ năm xưa

(GLO)- Trở về từ cuộc chiến khốc liệt ở Thành cổ Quảng Trị, cựu chiến binh Hồ Anh Hòa ít khi nhắc lại kỷ niệm chiến đấu với gia đình, con cháu. Bởi ông cho rằng, việc cầm súng lao vào cuộc chiến thời điểm ấy là trách nhiệm của một người con yêu Tổ quốc, “không nên công thần”.

Các cổ vật gốm sứ chén, bát, đĩa... được ngư dân nhặt được.

Làng cổ vật

Nép mình bên eo biển Vũng Tàu, thôn Châu Thuận Biển (xã Đông Sơn, huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi) không chỉ nổi tiếng là “làng lặn Hoàng Sa” với truyền thống bám biển, giữ chủ quyền, mà còn được ví như “kho báu” lưu giữ hàng loạt cổ vật từ những con tàu đắm hàng thế kỷ dưới đáy đại dương.

'Phu sâm' ở núi Ngọc Linh

'Phu sâm' ở núi Ngọc Linh

Nhiều doanh nghiệp và người dân lên ngọn núi Ngọc Linh hùng vĩ ở TP.Đà Nẵng thuê môi trường rừng để trồng sâm, mở ra một nghề mới để đồng bào Xê Đăng bản địa mưu sinh suốt nhiều năm qua: 'phu sâm', tức nghề cõng hàng thuê.

Thầy giáo làng đam mê sưu tầm đồ xưa cũ

Thầy giáo làng đam mê sưu tầm đồ xưa cũ

(GLO)- Không chỉ bền bỉ gieo con chữ cho học trò nghèo, thầy Võ Trí Hoàn-Hiệu trưởng Trường Tiểu học và THCS Quang Trung (xã Ia Tul, tỉnh Gia Lai) còn là người đam mê sưu tầm đồ xưa cũ. Với thầy, mỗi món đồ là bài học sống động về lịch sử dân tộc mà thầy muốn kể cho học trò.

Những cây đa trăm tuổi giữa đại ngàn Kon Ka Kinh

Những cây đa trăm tuổi giữa đại ngàn Kon Ka Kinh

(GLO)- Hàng trăm năm qua, những gốc đa lặng lẽ vươn mình trong rừng già Kon Ka Kinh, thấm đủ chuyện nhân sinh để hóa thành "chứng nhân" của đại ngàn. Quần thể đa cổ thụ không chỉ tạo nên cảnh quan kỳ vĩ, mà còn trở thành di sản tinh thần gắn bó với bao thế hệ cư dân sống dựa vào rừng.

Vào mùa xoay chín

Vào mùa xoay chín

(GLO)- Sau hơn 4 năm chắt chiu nhựa sống, hấp thụ tinh hoa đất trời, những cây xoay ở cánh rừng Kbang, Sơn Lang, Đak Rong đã bung hoa kết trái. Vào mùa xoay chín, người dân cũng đón “lộc rừng”, mang về nguồn thu nhập đáng kể.

Dệt những sợi kí ức giữa đại ngàn

Dệt những sợi kí ức giữa đại ngàn

Khi sản phẩm công nghiệp ngày càng tràn ngập thị trường thì ở vùng núi rừng Đưng K’nớ (xã Đam Rông 4, tỉnh Lâm Đồng) vẫn còn những người phụ nữ cần mẫn bên khung cửi, kiên nhẫn nhuộm từng sợi chỉ, dệt từng hoa văn. Những tấm thổ cẩm ra đời từ nơi đây là hơi thở níu giữ kí ức truyền thống đại ngàn.

Dặm dài Trường Lũy

Dặm dài Trường Lũy

(GLO)- Trường Lũy là một phức hợp bao gồm: lũy-bảo (đồn)-đường, hình thành từ thời chúa Nguyễn, xây dựng quy mô dưới triều Nguyễn; đi qua địa phận 3 tỉnh trước đây: Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định.

Tuyến 500kV Lào Cai - Vĩnh Yên, những ngày về đích: Cứ điểm dưới chân Hoàng Liên Sơn

Tuyến 500kV Lào Cai - Vĩnh Yên, những ngày về đích: Cứ điểm dưới chân Hoàng Liên Sơn

Trạm biến áp 500kV Lào Cai đang gấp rút hoàn thiện để trở thành điểm khởi đầu của tuyến đường dây 500kV Lào Cai - Vĩnh Yên. Đây là mắt xích chiến lược trong hành trình đưa nguồn điện dồi dào, đặc biệt là thủy điện ở Tây Bắc, vượt núi băng rừng về xuôi để hòa vào lưới điện quốc gia.

Viết giữa mùa măng rừng

Viết giữa mùa măng rừng

(GLO)- Vào tháng 7 đến tháng 11 hằng năm, khi những cơn mưa đầu mùa bắt đầu trút xuống, cũng là lúc người dân vùng cao nguyên Gia Lai lội suối, băng rừng để hái măng - thứ sản vật được người Jrai, Bana gọi là “lộc rừng”.

Vũ Văn Tam Lang & 50 cây violon đặc chế

Vũ Văn Tam Lang và 50 cây violon đặc chế

(GLO)- Cách đây vài năm, khi ngắm 22 cây đàn violon do ông Vũ Văn Tam Lang (phường An Phú, tỉnh Gia Lai) chế tác bằng tất cả tâm huyết được giới chuyên môn đánh giá cao, tôi thầm nghĩ, ông đã có thể tự hài lòng với những gì mình có.

Giữ mãi ngọn lửa hồng cách mạng

Giữ mãi ngọn lửa hồng cách mạng

(GLO)- Cuộc trò chuyện với hai nhân chứng sống - ông Hoàng Văn Tuyển và bà Huỳnh Thị Kim Xuyên đã đưa chúng ta trở lại những năm tháng kháng chiến đầy gian khổ, nơi tinh thần yêu nước và khát vọng cống hiến đã viết nên những trang đời đáng nhớ.

Xanh hóa các chốt dân quân thường trực

Xanh hóa các chốt dân quân thường trực

(GLO)- Khi mới xây dựng, các chốt chiến đấu dân quân thường trực biên giới chỉ có công sự, trận địa chiến đấu. Nhờ bàn tay lao động cần cù của cán bộ, chiến sĩ, chốt được phủ xanh bởi bồn hoa, cây cảnh, thảm cỏ, cây xanh và có vườn tăng gia, ao cá, tạo thêm nét đẹp ở nơi biên cương.

null