Cuộc "hội ngộ Đăm Noi"

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
(GLO)- Tây Nguyên cuối tháng 5, xen giữa những trận mưa dài vẫn có thời khắc nắng đẹp. Vì là những người “xưa cũ” của Ty Văn hóa-Thông tin (VHTT) Gia Lai-Kon Tum nên chúng tôi may mắn được tháp tùng “cơn gió” nghĩa tình từ Hà Nội “ùa” theo chị Phạm Thị Hà vào Pleiku để tìm đến “người xưa”, có tên là Khuyên Đông (Y Đông), ở tận vùng biên giới Đức Cơ và được chứng kiến “cuộc hội ngộ Đăm Noi” vô cùng xúc động.
“Hơmon Đăm Noi” là cuốn sử thi đầu tiên của Gia Lai-Kon Tum được công bố. Nội dung của sử thi Bahnar kể về người anh hùng Đăm Noi và các anh của chàng chiến đấu chống tên quỷ Drang Hạ-Drang Hơm, Bok Prao (thần Rồng), Klơm Bri (thần Gan Rừng)... Cuốn sách được ra mắt lần đầu vào năm 1982, đến nay vừa tròn 40 năm, tái bản lần thứ nhất năm 1985 và sau này còn một số lần tái bản nữa.
Trên đường tìm về làng Tung (xã Ia Nan, huyện Đức Cơ), câu chuyện của những người làm sử thi Đăm Noi hơn 40 năm về trước theo lời kể của chị Hà dần hiện lên trong tâm trí chúng tôi: Mùa đông năm 1978, Phạm Thị Hà là một trong những thành viên của Phòng Văn nghệ dân gian (Viện Văn hóa-Nghệ thuật thuộc Bộ VHTT) vào Tây Nguyên để giúp Ty VHTT Gia Lai-Kon Tum tổ chức Hội thảo sưu tầm vốn văn hóa-văn nghệ dân gian của các dân tộc tỉnh Gia Lai-Kon Tum. Đây là tiền đề cho việc hợp tác bài bản hơn giữa Viện Văn hóa-Nghệ thuật và Ty VHTT tỉnh Gia Lai-Kon Tum nhằm thực hiện Chương trình nghiên cứu-sưu tầm văn nghệ dân gian theo đề xuất của Trưởng ty Trịnh Kim Sung lúc ấy. Điều đáng nói ở đây là chương trình lớn này được thực hiện chỉ 3 năm sau ngày đất nước thống nhất.
Ngay từ chuyến khảo sát đầu tiên ở vùng người Jrai Ayun Pa, người Bahnar An Khê, để xây dựng kế hoạch cho chương trình nghiên cứu sưu tầm dài hơi, bắt đầu vào năm 1980, chị Phạm Thị Hà lúc đó là cô nữ sinh vừa tốt nghiệp Khoa Văn của Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội đã mê mẩn với một loại nghệ thuật độc đáo mà lần đầu chị và anh em trong đoàn được biết. Đó là loại hình nghệ thuật mà người Bahnar gọi là hơmon (hơamon) xuất hiện qua lời hát kể của nghệ nhân, vang lên trong đêm mùa đông buốt lạnh, trước cộng đồng Bahnar đông đảo tại nhà rông hoặc nhà của nghệ nhân. Quanh căn nhà có người hát kể hơmon, dân làng đốt nhiều đống lửa. Bên mỗi đống lửa là một nhóm người ngồi im lặng, vừa rít tẩu thuốc vừa chăm chú nghe như nuốt lấy từng lời.
Tháng 7-1980, chị lại cùng cộng sự vác ba lô vào Tây Nguyên để bắt đầu việc điền dã, sưu tầm theo một kế hoạch đã được đề ra ở vùng người Bahnar huyện An Khê (lúc ấy bao gồm cả thị xã An Khê và các huyện: Kbang, Đak Pơ, Kông Chro ngày nay). Lần này, đoàn xuống xã Jơma (Ya Ma), nay thuộc huyện Kông Chro. Tại Plei Srok, chị đặt máy ghi âm và may mắn đã ghi được trọn vẹn 3 đêm hơmon Đăm Noi (chàng Noi) với 7 giờ băng, do nghệ nhân Đinh Văn Mơl hát kể cho dân làng của mình nghe. Từ băng ghi âm này, chị và anh Khuyên Đông (người Bahnar) phải mất hơn 3 tháng để rã băng.
Tái hiện không gian hát kể sử thi của người Bahnar. Ảnh: Hoàng Ngọc
Tái hiện không gian hát kể sử thi của người Bahnar. Ảnh: Hoàng Ngọc
Sau khi anh Khuyên Đông nghỉ hưu (khoảng năm 1988, 1989), chúng tôi chỉ biết là anh ấy về Đức Cơ, rồi mất hẳn liên lạc. Vì vậy mà lần này, khi vừa được anh Nguyễn Quang Tuệ-Trưởng phòng Quản lý di sản (Sở Văn hóa-Thể thao và Du lịch) cho biết thông tin về anh Khuyên Đông, chị Hà đã tranh thủ bay từ Hà Nội vào tìm. Suốt dọc đường từ Pleiku lên Đức Cơ, câu chuyện của chúng tôi chỉ xoay quanh những công việc mà các anh chị đã làm để có một sử thi Đăm Noi ra mắt bạn đọc cách đây đúng 40 năm (năm 1982).
Vừa đi, vừa hỏi đường, cuối cùng chúng tôi cũng đến được làng Tung-quê vợ anh Khuyên Đông và cũng là nơi người đàn ông Bahnar này thường trú giữa vùng Jrai từ lúc về hưu. Cô con gái của anh dẫn chúng tôi vào nhà và chỉ đây là bă (bố) Đông. Bước đến bên, tôi chỉ chị Hà và hỏi người đàn ông có vẻ ốm yếu nằm trên giường: “Anh có biết ai đến thăm anh đây không?”. Vẫn nằm trên giường, anh nhìn một lúc rồi lắc đầu. Nhưng khi nghe tôi nói: “Đây là chị Hà, từ Hà Nội vào thăm” thì anh kêu lên: “Phạm Thị Hà!”. Rồi anh ngồi bật dậy, 2 người ôm nhau, tíu tít kể chuyện xưa, hỏi chuyện nay quanh cái trục Đăm Noi và những kỷ niệm khi họ cùng nhau làm sử thi này. Có thế, chúng tôi mới biết rõ vai trò của anh Khuyên Đông-một người địa phương, trong Hơmon Đăm Noi-một sử thi đã nổi tiếng gần nửa thập kỷ nay, mà cái tên Khuyên Đông hầu như không thấy bóng dáng trong đó.
Trong “Mấy điều lưu ý về H’mon Đăm Noi” xuất bản năm 1982, Giáo sư Tô Ngọc Thanh viết: “…ông Mơl và đồng chí A Đrin, cán bộ Ty VHTT đã ngồi nghe và ghi lại ra giấy từng câu và cuối cùng cho chúng tôi một nguyên bản tiếng Bahnar”. Nhưng theo chị Phạm Thị Hà thì anh Khuyên Đông mới là người chủ chốt cùng chị nghe băng, rã băng để dịch từ đối từ Bahnar-Việt, làm cơ sở cho chị Hà thực hiện bản dịch văn học tiếng Việt. Trong lúc làm việc, có nhiều khi, anh Khuyên Đông không đủ từ vựng để dịch sang tiếng Việt về một vấn đề nào đó, chị Hà phải nghe anh mô tả để hiểu và tìm từ tương ứng. Ví dụ, khi muốn tả cái chân rất trắng của cô gái, không biết ví nó trắng thế nào, anh Khuyên Đông bèn chỉ vào chân của chị Hà nói “trắng thế này này”. Sau một hồi suy nghĩ, anh lại nói, trắng như cây chuối. Chị Hà cũng phải nghĩ mãi mới luận ra: Cây chuối thì phải bóc hết bẹ xanh bên ngoài, chỉ còn phần nõn mới trắng. Hay khi muốn nói về cái mào của con vật, nhưng anh chỉ biết nói, nó là cái giống như cái ở trên đầu con gà… từ đó, chị Hà suy nghĩ rồi mới ớ ra: “À, đó là cái mào”… Phải cùng gỡ băng với người dịch nghĩa, nghe giọng hát kể trầm bổng của nghệ nhân, chị Hà mới hiểu được ý tứ, ngữ cảnh… để có một bản dịch văn học mượt mà, chuẩn xác sau này đến tay bạn đọc. Theo chị Hà, sau đó, bản tiếng Bahnar cũng được hoàn thiện, in roneo để nộp cho Ty VHTT (nhưng rất tiếc là nó đã không được in cùng với bản tiếng Việt-theo cách làm sách lúc đó nên bị thất lạc).
Xin bạn đọc vài dòng để nói về anh Khuyên Đông-người có công lớn, nhưng chưa được ghi danh xứng đáng trong Đăm Noi (đây cũng là điều làm cho chị Hà cảm thấy áy náy): Tháng 10-1960, để đáp ứng yêu cầu cách mạng địa phương trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, tỉnh chủ trương thành lập đội văn công. Ông Rơchâm Briu (Grang, người Jrai) được giao nhiệm vụ đến các làng trong vùng căn cứ để tuyển diễn viên. Đợt đầu, đội tuyển được gần 40 anh chị em người Bahnar, chủ yếu là ở khu 7 (nay là huyện Kông Chro), trong đó có chị H’Nghia, anh Khuyên Đông. Những năm 1964-1968, anh Khuyên Đông là Đội phó phụ trách chuyên môn. Năm 1969, khi chị H’Nghia-Đội trưởng chuyển công tác về Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy thì anh Khuyên Đông là Đội trưởng. Sau ngày giải phóng, anh về làm việc tại Ty VHTT và từ đó mà có được cơ duyên với Đăm Noi-sử thi về người anh hùng của dân tộc mình, trên chính quê hương mình.
...Cuộc hội ngộ nào dù nghĩa tình đến đâu rồi cũng tới lúc phải chia tay. Rời làng Tung để về Pleiku trở ra Hà Nội, chị Hà vẫn như chưa thể “để” Đăm Noi lại phía sau. Chị cho chúng tôi biết, chị sẽ sớm tái bản Đăm Noi, kèm vĩ thanh để nói hết những gì mà các bản Đăm Noi ở những lần xuất bản trước đây chưa thể nói, trong đó có câu chuyện về anh Khuyên Đông-người đã cùng chị đưa Đăm Noi từ không gian hát kể ở làng lên trang sách hôm nay.
NGUYỄN KIM

Có thể bạn quan tâm

Sáp nhập đơn vị hành chính gắn với bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa

Sáp nhập đơn vị hành chính gắn với bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa

(GLO)- Thực hiện cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy của hệ thống chính trị là yêu cầu mang tính sống còn của đất nước trước vận hội phát triển mới. Trong đó, sắp xếp các đơn vị hành chính cấp tỉnh, cấp xã để xây dựng mô hình chính quyền 2 cấp đang được dư luận hết sức quan tâm.

Tục thờ thần Bạch Mã ở vùng Tây Sơn Thượng đạo

Tục thờ thần Bạch Mã ở vùng Tây Sơn Thượng đạo

(GLO)- Thần Bạch Mã (hay còn gọi là Thái giám Bạch Mã, Bạch Mã Thái giám) là vị thần có ảnh hưởng lớn trong đời sống tín ngưỡng dân gian ở vùng Tây Sơn Thượng đạo. Hiện nay, một số đình tại thị xã An Khê còn duy trì việc thờ cúng và gìn giữ sắc phong vua ban cho vị thần này.

'Bảo hiểm' cho di sản

'Bảo hiểm' cho di sản

Tại lễ công bố các di sản văn hóa phi vật thể quốc gia và quyết định xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa cấp thành phố tại TPHCM vào cuối tháng 3 vừa qua, Công ty CP Tư vấn Cảng - kỹ thuật biển (Portcoast) đã trao tặng toàn bộ sản phẩm số hóa của Nhà hát Thành phố cho Trung tâm Nghệ thuật TPHCM.

Vua Lửa: Huyền thoại và hiện thực

Vua Lửa: Huyền thoại và hiện thực

(GLO)- Chuyện về các Pơtao Apui (Vua Lửa) sở hữu gươm thần có quyền năng hô mưa gọi gió không chỉ là huyền thoại mà gắn với dòng chảy văn hóa, lịch sử của người Jrai ở thung lũng Ayun Hạ (huyện Phú Thiện, tỉnh Gia Lai) suốt nhiều thế kỷ qua.

Những người thầm lặng chăm lo việc làng

Những người thầm lặng chăm lo việc làng

(GLO)- Không chế độ phụ cấp, bổng lộc nhưng nhiều năm qua, các cụ từ, bà vãi trong đội hậu cần, ban nghi lễ tại các đình, miếu trên địa bàn thị xã An Khê vẫn thầm lặng, miệt mài với công việc. Sự tự nguyện ấy xuất phát từ tâm huyết dành cho văn hóa, di sản của cha ông.

Tùy theo điều kiện của từng gia đình để chuẩn bị quy mô lễ cúng lớn hay nhỏ

Gia Lai: Độc đáo lễ thổi tai của người Jrai

(GLO)- Nằm trong chuỗi các hoạt động Lễ cầu mưa Yang Pơtao Apui huyện Phú Thiện năm 2025, sáng 27-3, tại xã Ia Yeng đã diễn ra lễ thổi tai của người Jrai. Nghi lễ được tái hiện rõ nét giúp du khách hiểu được ý nghĩa văn hóa tâm linh trong đời sống của người Jrai nơi đây.

Lễ cầu mưa trên đỉnh núi thần: Di sản đặc biệt

Lễ cầu mưa trên đỉnh núi thần: Di sản đặc biệt

(GLO)- Trên đời có thực sự tồn tại những con người có quyền năng hô mưa gọi gió? Chính hiện thực và truyền thuyết hư ảo đan cài vào nhau khiến lễ cầu mưa của Yang Pơtao Apui ở thung lũng Ayun Hạ trở thành một hiện tượng đặc biệt, hấp dẫn bởi sự linh thiêng, huyền bí.

Tự hào con cháu Hai Bà Trưng

Tự hào con cháu Hai Bà Trưng

(GLO)- Đền thờ Hai Bà Trưng là di tích quốc gia đặc biệt, tọa lạc tại thôn Hạ Lôi, xã Mê Linh, huyện Mê Linh, TP. Hà Nội. Đây cũng là quê hương của Hai Bà Trưng-những nữ tướng anh hùng đã nổi dậy chống quân xâm lược nhà Hán.

Lễ Tế Xuân tại đình làng An Mỹ

Lễ Tế Xuân tại đình làng An Mỹ

(GLO)- Ngày 9-3, tại đình làng An Mỹ (thôn 2, xã An Phú, TP. Pleiku, tỉnh Gia Lai) diễn ra lễ cúng đình với các nghi thức long trọng tưởng nhớ công ơn của các vị tiền hiền có công khai hoang mở đất, lập làng và cầu quốc thái dân an.