Cúi đầu trước núi

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

Tự dưng lúc này đây, khi đang ngồi dưới chân một dãy núi Tây Nguyên mà trong tôi lại trào lên cảm thức về những ngọn núi. Đó có thể là nỗi ám ảnh mang mạch thở linh sơn đâu đó trong tâm tưởng. Ngắm núi mà muốn thốt lên lời tự lòng mình, ơi những chóp đỉnh cao vời, một hạt bụi bé li ti trong vũ trụ vô hạn là tôi xin được ngàn lần cúi đầu ngưỡng vọng; xin được bày tỏ khát khao về những ký ức miên viễn trên không gian sương khói lưng chừng trời kia mãi mãi hoài sinh...

Bidoup - Núi Bà. Ảnh: Internet
Bidoup - Núi Bà. Ảnh: Internet


 
1. Địa văn hóa chỉ ra rằng, con người sinh ở tiểu vùng địa lý cảnh quan nào thì sẽ hình thành nét tính cách tương ứng. Người ở vùng biển làm nghề chài lưới thì tâm tính không mấy giống lắm với người sống ở nơi đồng ruộng; sơn dân ở vùng thượng du cũng không trùng lối hành xử và phong thái của cư dân miền hạ. Không biết là người ta khái quát như vậy có thực sự chính xác hay không. Còn tôi, tôi sinh ra ở bên bờ biển nhưng từ lâu rồi, hình như tâm tưởng đã thuộc một phần về núi, đó là những dãy núi nơi tôi đang sống, hiển hiện trong tầm mắt thường nhật và cả những đường nét sơn dã ảo mờ như những dòng ký ức điệp trùng từ miền xa xăm. Xin tạm định danh là tâm thức núi. Với tôi, núi từng là một miền vẫy gọi, rồi tháng năm trở nên gắn bó, rồi những cuộc trải nghiệm ắp đầy hấp lực. Cuộc hành trình đi mãi theo mãi, tìm chút gì ở núi, mà bao tháng năm qua vẫn như đang lạc đâu đó ở triền thấp nhất của muôn nẻo đại ngàn. Núi ban cho tôi những ân huệ cảm xúc. Tôi cũng nghĩ về núi như một nơi chốn trú ngụ của những hoài vọng, là điểm tựa cân bằng trong những lúc tâm hồn cần sự tĩnh suy. Xa núi thì nhớ núi, về bên núi vẫn không nguôi cơn khát kiếm tìm giữa mênh mang cao vời những chóp đỉnh sơn nguyên...
 
Tôi sinh ra nơi cuối sông đầu biển. Với đám con nít ở vùng duyên hải mở mắt đã chạm vào sóng nước thì cái hình dung về núi là một thực thể gì đó thật xa, mờ, cao, lạ. Đến tuổi hoa niên, có lẽ lòng trai trẻ cũng chớm run đôi chút cảm xúc, tôi mới chạm vào sự thích câu ca dao xưa: “Núi cao chi lắm núi ơi/ Che khuất mặt trời chẳng thấy người thương”. Mà câu ca bày tỏ nỗi nhớ thương trong cách trở ấy chắc chắn sinh ra từ một vùng quê núi. Tôi từng tạm liên tưởng như thế khi thuở ấu niên đã được thấy những người đàn ông, đàn bà miền thượng mang váy áo thổ cẩm, lúc lắc sặc sỡ vòng bạc, vòng cườm thỉnh thoảng lại hạ sơn về bán lá thuốc, mộc nhĩ, nấm hương, thịt rừng khô giữa phiên chợ quê tôi. Nói tóm lại, từ thị giác cho tới thức nhận, thuở xưa ấy, núi với tôi là một thực thể nhiều phần xa lại. Ký ức núi của tôi là... cái núi giả. Ngọn giả sơn có tượng hình ngôi chùa chênh vênh vách đá và lão tiều phu gánh củi trong cái bể cạn bằng đá bên góc sân nhà, nghe bảo có từ thời ông nội, là khái niệm đầu tiên về điệp trùng núi non đâu đó trên miền thượng du mà tôi được cảm nhận. Cảm nhận trong một nỗi bất lực bởi thiếu sự trải nghiệm. Nhưng cũng từ cái ngọn núi giả được chế tác bằng vật liệu thô mang tượng hình khô khan ấy đã giúp tôi mỗi ngày như ngấm thêm một chút về nỗi niềm khao khát cội nguồn thiên nhiên sơ khai của những con người hiện đại. Bởi tiền nhân của chúng ta từ thời tiền sử từng thuộc về núi non, hang động, từng thuộc về những cánh rừng có trái cây ngon, muông thú lạ và lần đầu tiên con người biết lấy lửa nướng chín thức ăn là từ việc xát nắm bùi nhùi lên hòn đá núi...
 
Chợt nghĩ, có phải do vậy không mà cho đến bây giờ, những gì mà ngôn từ định danh là “nguồn” đều có xuất xứ từ trên miền cao, ở nơi đó có núi? Một người bạn có cái đầu chất chứa nhiều suy tưởng của tôi “phán” rằng, người đồng bằng thích chơi giả sơn là bởi người ta luôn thổn thức trong lòng nỗi hoài niệm về xứ nguồn tiên tổ, nơi hình thành gốc gác buổi sơ khai của chính mình với tư cách là con - người - đứng - thẳng. Tôi cũng thấy là lũ trẻ miền biển đứa nào cũng thích vẽ. Với cây bút chì vẽ lên giấy, viên phấn trắng vẽ lên bảng hay cái que nguệch ngoạc những đường nét lên bãi cát ẩm thì những phong cảnh về dòng sông, về con thuyền, về mẹ gánh thóc, về cha đi cày, về anh kéo lưới… đều có thể được hình thành trong hình dung non nớt. Những điều ấy dễ hiểu, bởi tất cả đều trực quan, thân thuộc. Nhưng điều lạ là đứa nào cũng có thể vẽ núi. Những chóp đỉnh, những dãy điệp trùng, những đại ngàn mênh mang cứ thế hiện lên theo trí tưởng tượng hồn nhiên, dù chưa có đứa nào một lần thấy núi. Ngay cả bài ca dao đầu đời mà các bậc sinh thành bắt lũ con nít miền đồng bằng phải thuộc nằm lòng như một lời nhắc nhở về đạo hiếu cũng không nói gì liên quan đến đồng đến biển: “Công cha như núi Thái Sơn/ Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra...”.
 
2. Trước núi, tôi vẫn thường suy tưởng về những gì đã khuất lấp và những gì sắp hiện hữu. Ví như, khuất phía sau mỗi con đường mòn ngoằn ngoèo kia chắc là có dòng suối mát lành nhằm thỏa cơn khát của người leo núi. Khuất phía sau chập chùng xanh thẳm kia cũng có thể là một linh tự thờ những vị thượng đẳng thần Cao Các - Cao Sơn hay bà Rồng, ông Cọp. Khuất phía sau những sương khói bồng bềnh giữa lưng chừng trời cũng có thể là một ngôi chùa tránh xa tục lụy nhằm rửa bớt những dục vọng, ưu phiền. Đâu đó sau phiến đá xám rêu là ngôi lều cỏ có bậc hành giả hiện trong dáng tiều phu. Không thể nào biết phía chưa đến ấy có gì và có thể là cả đời cũng không đến được, nhưng điều này có thể nhận ra: thử thách của núi là thử thách cao nhất mà mỗi người phàm trần đều muốn hướng tới.
 
Núi, có lẽ là một ám ảnh lớn lao trong tiềm thức loài người. Cái ám ảnh khởi nguyên mang tính bản năng ấy có gì đó hoang dã nhưng lớn hơn điều đó chính là sự cao vời, thiêng liêng. Cảm xúc về tính thiêng bắt nguồn từ nỗi cô đơn mang “thuộc tính núi”, càng lên cao càng bơ vơ lạnh lẽo, và cũng có thể bắt nguồn từ muôn trùng hoang hoải, bất lực của tha nhân trước những nỗi lo sợ của chính họ. Con người, nhất là người tiền sử và ngay đến thời xã hội bán khai thì có muôn trùng sự thiếu hiểu biết và hoàn toàn thất thủ trước sự đe dọa của các thế lực tự nhiên, siêu nhiên. Mưa, gió, sấm, sét, lũ lụt, ma quỷ, thánh thần luôn hiện hữu trong thực tế và ý nghĩ của họ với những điều không thể lý giải. Và vì vậy, họ luôn ôm trong lòng nỗi tột cùng sợ hãi và mong cầu sự che chở, nâng đỡ của đấng tối cao. Người ta ngửa mặt lên trời để chuyển tải những thông điệp cầu xin. Trời thì quá cao vời, nhưng thật may, những đỉnh núi làm nhịp cầu nối đất với trời. Trong quan niệm cổ sơ, thần linh thường chọn các đỉnh núi cao nhất để ngự vì. Là Olempia trong thần thoại, là Himalaya, Makalu, Nanga Parbat ở nơi xứ người hay Phan Xi Phăng, Tản Viên, Ngọk Linh, Cư Yăng Sin, Bidoup xứ mình đều vậy. Người ta gọi những đỉnh núi cao là “cổng trời”. Những gì con người không truyền tải được trực tiếp lên Thượng đế, đành phải thưa gửi, nhờ cậy các vị thần, mà thần thì đang ngự đâu đó trên các ngọn núi. Là thánh thần nhưng con người vẫn thường gặp họ qua ngũ giác của mình, nên trong vẻ hùng vĩ cao vời lại có chút gì gần gũi, thân thiết.
 
Ở miền Tây Nguyên, nơi tôi đang sống cũng vậy. Núi non nơi này là sản phẩm triệu năm của Tạo Hóa. Núi là biểu tượng của quyền uy, sức sống và cái đẹp. Núi là không gian của niềm tin, của huyền thoại, là thế giới của những bí ẩn. Thế giới tinh thần của các sắc dân miền thượng lệ thuộc vào núi, vào rừng, bởi không gian sinh tồn của con người gắn bó mật thiết với nơi chốn trú ngụ của thế giới thánh thần. Cư dân bản địa hành xử theo vọng ngôn của núi. Những chênh vênh hay bền vững. Những bi tráng hay phiêu bồng. Những yêu thương, trìu mến và cả ẩn ức, căm ghét, hận thù. Hãy lắng nghe những lời kể sử thi, những câu chuyện cổ, những áng ca dao, những vần luật tục. Hãy đắm mình vào trang sử ngàn năm xứ núi. Hãy quỳ trên đất đai xứ này trong các nghi lễ và lắng nghe thông điệp. Rồi sẽ thấy ở xứ này hồn núi cùng hòa vào huyết quản của cư dân núi. Những đỉnh núi mang bi kịch thánh thần. Những ngọn núi tạo nên tín ngưỡng và chuyện tình lãng mạn. Rồi sẽ thấy, những ngọn núi, dãy núi không chỉ tồn tại như những chỉ dấu địa lý trên bản đồ quốc gia, núi chính là một phần hồn cốt thiêng liêng của Tổ quốc mình…
 
3. Tôi có những người bạn xứ núi, những người con ruột rà của đại ngàn. Nếu núm rốn của tôi ngày xưa bà nội giấu nơi góc ruộng lúa sau nhà thì núm rốn của những người bạn miền thượng của tôi lại được hòa trong đất đai rẫy ngô nơi triền núi. Bỗng một ngày những người bạn của tôi giã biệt cái nhà sàn khét mùi khói bếp của ông bà, bỏ rẫy rừng hoang phế, bạn quên bài chiêng cổ, bạn ngồi uống bia trong tòa biệt thự, bạn lái xe sang hạ sơn xuống phố. Đó là một thực tế, một thực tế không thể nào cưỡng lại. Nhưng từ trong sâu thẳm, tôi vẫn cảm nhận cái tâm trạng nhớ núi ngay giữa vùng núi non đang từng ngày bị cạo trọc cho những dự án bất động sản và du lịch trong ánh mắt của bạn bởi nó không giấu được. Như hôm kia, tôi cùng Krajan Plin, người đàn ông núi sinh ra ở triền phía bắc dãy Lang Bian, đứng bên bờ rào nhà anh ngắm khu đô thị mới với những con đường bê tông đang trườn lên, liếm dần cái dãy núi từng sinh ra câu chuyện tình lãng mạn của đôi trai gái hai bộ tộc Cơ Ho từ ngàn năm trước mà nói với nhau những điều về nỗi niềm núi và cả về những nguồn lợi từ việc ai đó đang khoét núi, san đất, phân lô…
 
Nhìn Plin mà tôi lại nhớ “Bức thư của thủ lĩnh da đỏ” ở nước Mỹ cách nay hai thế kỷ. Chuyện là, năm 1854, Tổng thống thứ 14 của xứ Hoa Kỳ là Franklin Pierce muốn người da đỏ ở miền Tây nhượng bớt đất cho người da trắng. Tù trưởng của bộ lạc da đỏ Duwamish và Supuamish đã trả lời với người đại diện của Tổng thống. Bức thư này được coi là văn kiện hay nhất xưa nay về mối quan hệ thiêng liêng của các tộc người thiểu số đối với đất đai quê hương ngàn đời của họ. Người con của núi non nước Mỹ nói lời gan ruột: “Đối với đồng bào tôi, mỗi tấc đất là thiêng liêng, mỗi lá thông óng ánh, mỗi bờ cát, mỗi hạt sương long lanh trong cánh rừng rậm rạp, mỗi bãi đất hoang và tiếng thì thầm của côn trùng là những điều thiêng liêng trong ký ức và kinh nghiệm của đồng bào tôi. Những dòng nhựa chảy trong cây cối cũng mang trong đó ký ức của người da đỏ…”.
 
Dịp rồi, trên hành trình từ vùng Đắk Nông qua Đắk Lắk, tôi đã dừng lại dưới chân dãy Chư Yăng Sin mà ngắm núi lặng lẽ. Núi cao vẫn đó mà hồn núi nơi đâu? Tôi tìm kiếm hình ảnh thiêng liêng của Yàng P’nâm trên những địa tầng mỗi ngày mỗi bị cạo trọc lên tận chóp đỉnh, tìm kiếm Yàng trên những dòng suối khô cạn và đám rừng khộp xác xơ. Không chỉ Chư Yăng Sin, khắp mọi miền thượng du nước mình đều đang có những cuộc xâm lăng bạt núi, hạ rừng. Những làn sóng tàn phá được mệnh danh khai thác cho phát triển cứ đẩy lùi, đẩy lùi dần những ngọn núi đến với trơ trọc, cao quạnh. Đỉnh núi như ngày càng xa hơn. Chân núi ngày càng thưa vắng sự sống của tự nhiên. Ký ức về một không gian núi cứ chập chờn ẩn hiện. Không lẽ rồi một ngày sẽ bay biến tất cả?! Cái điều mà Fridric Angel - một trong hai nhà sáng lập Chủ nghĩa Mark từng cảnh báo hồi thế kỷ 19: “Không nên quá tự hào về những thắng lợi của chúng ta đối với tự nhiên. Bởi vì cứ mỗi lần ta đạt được một thắng lợi, là một lần giới tự nhiên lại trả thù chúng ta”, quả thật vẫn mới. Ngay cả khi Thượng đế trao cho con người cái quyền cai trị muôn loài nơi hạ giới, ngài cũng đồng thời căn dặn loài động vật bậc cao này biết độ lượng, yêu thương thiên nhiên. Nhưng bởi lòng tham, bởi sự ảo tưởng về tính kiêu hãnh, chính con người đã tận diệt chính không gian sống của mình mà quên rằng đó là việc làm hủy hoại giống loài. Nghĩ đến điều này, tôi lại ngước mắt nhìn núi với nỗi sợ không còn mơ hồ. Rồi đây khi núi không còn cây, núi không còn rừng, núi không còn là nơi khơi mạch nguồn nước mẹ thì không chỉ con người mà e rằng những mùa sương tháng gió cũng sẽ rất hoang hoải, bơ vơ…
 
Lại thêm một lần xin cúi đầu trước núi, cái cúi đầu chung của loài người có tội! Và rồi, tôi đành phải bám vào một điều gì đó mà bản thân cũng không dám hằng tin, rằng có những điều bất biến, ít nhất là chính trong hồn cốt của nó. Núi rồi sẽ cạn kiệt, tàn tạ, trọc lóc, khô cằn, nhưng tôi cứ mong rằng: “Điều đó trôi đi, nhưng nó không trôi qua”. Hình như đó là một câu trong cuốn sách dán nhãn hậu hiện đại của Lászlo Krasznahorkai, nhà văn Hunggary, xin tạm mượn để thay cho lời niệm cầu: Linh hồn của những ngọn núi thì sẽ mãi mãi hoài sinh và tồn tại!

 

Tùy bút: UÔNG THÁI BIỂU
(Dẫn nguồn LĐ online)

 

Có thể bạn quan tâm

Người nối dài tình yêu với dân ca Jrai

Người nối dài tình yêu với dân ca Jrai

(GLO)- Suốt 50 năm qua, bà Kpă H’Mi (SN 1961, buôn Chư Jú, xã Ia Rsai, huyện Krông Pa) vẫn luôn say mê những giai điệu dân ca Jrai. Bà là niềm tự hào của buôn làng khi không chỉ lưu giữ mà còn truyền cảm hứng cho thế hệ trẻ thêm yêu và gắn bó với những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.

Mắt hạ cho nhau

Thơ Lenguyen: Mắt hạ cho nhau

(GLO)- "Mắt hạ cho nhau" của Lenguyen là khúc ngân dịu dàng của tuổi học trò, nơi bằng lăng tím, phượng đỏ và tiếng ve gọi về ký ức. Bài thơ chan chứa hoài niệm, tiếc nuối những rung động đầu đời chưa kịp nói thành lời.

“Tên Người là cả một niềm thơ”

“Tên Người là cả một niềm thơ”

(GLO)- Bảo tàng Hồ Chí Minh (thuộc Bảo tàng tỉnh Gia Lai) hiện trưng bày, giới thiệu nhiều hình ảnh, tài liệu, hiện vật về cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Bác. Một trong số đó là tập sách “Tên Người là cả một niềm thơ” do ông Nguyễn Khoa-Cán bộ lão thành cách mạng trao tặng năm 2004.

Mới mẻ “Trang sách mùa hè”

Mới mẻ “Trang sách mùa hè”

(GLO)- 12 năm liên tục duy trì chương trình “Trang sách mùa hè” cũng là chừng ấy thời gian cán bộ, viên chức Thư viện tỉnh dành nhiều tâm huyết để tạo ra một không gian vừa học vừa chơi mới mẻ, hấp dẫn.

Thơ Phạm Đức Long: Di vật đời người

Thơ Phạm Đức Long: Di vật đời người

(GLO)- Bài thơ "Di vật đời người" của Phạm Đức Long là khúc tưởng niệm thấm đẫm cảm xúc về những người lính đã hi sinh trong chiến tranh. Họ ngã xuống giữa rừng xanh, để lại những di vật bình dị mà thiêng liêng, là biểu tượng bất tử của một thời tuổi trẻ quên mình vì Tổ quốc...

Âm sắc Tây Nguyên trên quê Bác

Âm sắc Tây Nguyên trên quê Bác

(GLO)- Từ ngày 16 đến 20-5, gần 40 ca sĩ, diễn viên, nghệ nhân Gia Lai đã tham gia 2 sự kiện vô cùng ý nghĩa tại tỉnh Nghệ An. Đó là hội diễn nghệ thuật quần chúng “Tiếng hát Làng Sen” và triển lãm “Hồ Chí Minh đẹp nhất tên Người” năm 2025.

Khai mạc triển lãm ảnh “Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia tại Bình Định - Sắc màu hội tụ”

Khai mạc triển lãm ảnh “Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia tại Bình Định - Sắc màu hội tụ”

Nhân kỷ niệm 135 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 - 19/5/2023); 47 năm Ngày Quốc tế Bảo tàng (18/5/1978 - 18/5/2025), sáng 12-5, Bảo tàng tỉnh Bình Định phối hợp Bảo tàng Quang Trung khai mạc triển lãm ảnh chủ đề “Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia tại Bình Định - Sắc màu hội tụ”.

Thơ Nguyễn Thanh Mừng: Gia Lai một hai ba

Thơ Nguyễn Thanh Mừng: Gia Lai một hai ba

(GLO)- "Gia Lai một hai ba" của Nguyễn Thanh Mừng dẫn người đọc qua những nẻo đường dốc đèo, qua tiếng thác reo và chiêng cồng, để gặp lại khí phách người xưa. Mỗi hình ảnh, mỗi nhịp thơ là một lát cắt vừa hoang sơ, vừa tự hào về bản sắc không thể phai mờ của đại ngàn Tây Nguyên.

Thơ Lê Thành Văn: Nghe con đọc thơ về Tổ quốc

Thơ Lê Thành Văn: Nghe con đọc thơ về Tổ quốc

(GLO)- Trong bài thơ "Nghe con đọc thơ về Tổ quốc", tác giả Lê Thành Văn để mạch cảm xúc tuôn chảy tự nhiên: từ sự rưng rưng khi nhớ về chiến tranh đến niềm tin lặng lẽ gửi gắm vào thế hệ mai sau. Bài thơ như một nhịp cầu nối liền quá khứ đau thương và hiện tại bình yên.

Thơ Lê Vi Thủy: Biên cương mùa gió

Thơ Lê Vi Thủy: Biên cương mùa gió

(GLO)- Giữa những cơn gió xào xạc của núi rừng Tây Nguyên bỏng rát, bài thơ “Biên cương mùa gió” của Lê Vi Thủy như thổi vào lòng người nỗi xúc động lặng thầm. Từ ánh mắt trẻ thơ đến no ấm buôn làng và những giọt mồ hôi người lính, tất cả hòa quyện trong khát vọng yên bình nơi địa đầu Tổ quốc.

Tổ quốc trong tim

Thơ Lenguyen: Tổ quốc trong tim

(GLO)- Bài thơ “Tổ quốc trong tim” của tác giả Lenguyen là lời tri ân sâu sắc với cha ông đã hy sinh vì độc lập dân tộc. Từ Cửu Long đến Trường Sơn, từ Điện Biên đến Sài Gòn, một Việt Nam bất khuất vươn lên giữa máu và hoa, rạng ngời sắc cờ Tổ quốc.

Thơ Đào An Duyên: Lòng quê

Thơ Đào An Duyên: Lòng quê

(GLO)- Trong nhịp sống hiện đại hối hả, bài thơ "Lòng quê" của tác giả Đào An Duyên là tiếng vọng thầm lặng mà day dứt. Người xa quê, dù ở đâu chăng nữa vẫn mang trong tim nỗi nhớ cội nguồn. Qua hình ảnh nước xuôi nước ngược, bài thơ gợi về sự gắn bó thiêng liêng giữa con người và quê hương.

Người nặng lòng với dân ca Tày

Người nặng lòng với dân ca Tày

(GLO)-Hơn 30 năm kể từ ngày rời quê hương Cao Bằng vào Gia Lai lập nghiệp, ông Mã Văn Chức (SN 1961, tổ 3, thị trấn Phú Thiện) vẫn nặng lòng với văn hóa dân tộc Tày. Hơn 100 bài hát đã được ông sáng tác theo làn điệu dân ca Tày với mong muốn “giữ lửa” cho âm nhạc dân gian.