Còn khoảng trống trong nghiên cứu truyện cổ Jrai, Bahnar

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
(GLO)- Những năm qua, công tác sưu tầm, nghiên cứu văn hóa dân gian của đồng bào các dân tộc ở khu vực Trường Sơn-Tây Nguyên đã gặt hái được nhiều thành tựu. Tuy nhiên, công tác nghiên cứu lý luận về về văn học dân gian ở địa phương, trong đó có truyện cổ Jrai, Bahnar còn khoảng trống đáng lưu tâm.

Jacques Dournes (1922-1993) là nhà Tây Nguyên học nổi tiếng. Khi tìm hiểu về các dân tộc thiểu số nơi đây, ông đã nhận định: “Bởi vì người Tây Nguyên, tự trong chính họ, có những điều gì đó có thể định hướng cho các nghiên cứu. Quả là họ không biết chữ, không có một văn bản hay một công trình kiến trúc nào có thể dùng làm điểm mốc. Nhưng, tự trong tâm hồn, họ có truyền thuyết cổ xưa, mà những người già vẫn hát để dạy bảo cho các thế hệ trẻ (...).

Sử thi truyền thống rất giàu những chi tiết về thời xa xưa khi người Tây Nguyên chưa sống trên rừng núi hiện nay; nó cho phép ta phục dựng lại lịch sử của họ. Là giả thuyết, đương nhiên, song mỗi đề xuất đều có truyện kể, truyền thuyết làm chỗ dựa. Đây là lịch sử của Tây Nguyên, như người Tây Nguyên kể lại” (theo “Miền đất huyền ảo”, Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông năm 2017, Nguyên Ngọc dịch).

Ảnh minh họa: Phạm Quý

Ảnh minh họa: Phạm Quý

Gần đây, bên cạnh những nghiên cứu, sưu tầm khá đồ sộ về sử thi Tây Nguyên, dân ca và các thể loại khác, trong đó có truyện cổ của các dân tộc ở Tây Nguyên cũng được nhiều người chú trọng. Tuy nhiên, số lượng truyện cổ được sưu tầm, cũng như nghiên cứu sâu về loại hình này đang còn khá khiêm tốn so với các loại hình văn hóa, văn nghệ dân gian khác.

Tại Gia Lai, công tác sưu tầm truyện cổ, truyền thuyết dân tộc Jrai, Bahnar được sự quan tâm của các cấp, ngành cũng như nhiều cá nhân. Sách “Văn học dân gian Gia Lai” do Sở Văn hóa-Thông tin Gia Lai xuất bản năm 1996 đã công bố 23 truyện cổ Jrai và 21 truyện cổ Bahnar. Còn sách “Lễ hội bỏ mả Bắc Tây Nguyên” của nhà nghiên cứu văn hóa Ngô Văn Doanh công bố 23 truyện cổ Jrai, Bahnar do tác giả và các thành viên khác sưu tầm.

Riêng cố thạc sĩ Chử Anh Đào, trong công trình nghiên cứu văn học dân gian đã công bố 28 truyện cổ Jrai, Bahnar do chính anh sưu tầm trước năm 1998. Gần đây, một vài giáo viên đam mê văn hóa truyền thống cũng đã có ý thức sưu tầm truyện cổ của đồng bào các dân tộc thiểu số. Đơn cử như thầy giáo Ninh Văn Dậu (Trường THPT Đinh Tiên Hoàng, huyện Krông Pa) đã cùng học sinh sưu tầm, tập hợp thành tài liệu song ngữ “Truyện dân gian của người Jrai ở huyện Krông Pa, Gia Lai” phục vụ cho công tác giảng dạy văn học địa phương.

Bên cạnh đó, để khuyến khích việc sưu tầm, phổ biến các truyện cổ, truyền thuyết của các dân tộc thiểu số về vùng đất, địa danh sông, hồ, núi non... gắn với du lịch, các nhà nghiên cứu văn hóa địa phương đã có ý tưởng xuất bản truyện cổ bằng tranh vẽ nhằm phổ biến rộng rãi đến người dân và du khách. Đến nay, thạc sĩ Nguyễn Quang Tuệ-Trưởng phòng Quản lý văn hóa (Sở Văn hóa-Thể thao và Du lịch) cùng nhóm cộng sự đã xuất bản một số truyện tranh như: Sự tích về Chư Đang Ya, Sự tích Kon Jrang, Sự tích Kông Kah King…

Tuy vậy, công tác nghiên cứu lý luận về về văn học dân gian ở địa phương, trong đó có truyện cổ còn có khoảng trống đáng lưu tâm. Theo tìm hiểu của chúng tôi, từ cuối những năm 90 của thế kỷ trước, thạc sĩ Chử Anh Đào đã có công trình nghiên cứu: “Hệ thống mô típ trong truyện cổ dân gian Jrai, Bahnar ở Gia Lai”.

Đây là công trình khoa học được đầu tư khá công phu nhằm góp phần làm sáng tỏ thêm những giá trị nội dung và nghệ thuật độc đáo riêng của truyện cổ 2 dân tộc Jrai, Bahnar ở địa phương; qua đó thấy được sự giao lưu gặp gỡ với các dân tộc khác trong cùng một thời kỳ phát triển của lịch sử, của văn minh nhân loại.

Tháng 4-2018, tại Đắk Lắk đã diễn ra hội thảo khoa học về bảo tồn và phát huy giá trị văn học cổ truyền các dân tộc thiểu số khu vực Tây Nguyên trong bối cảnh hội nhập và phát triển. Sự kiện này do Viện Nghiên cứu kinh tế-xã hội nhân văn miền núi (Trường Đại học Sư phạm, Đại học Thái Nguyên) phối hợp với Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Tây Nguyên (Trường Đại học Tây Nguyên) tổ chức.

Hội thảo cũng đã nghe các báo cáo về công tác sưu tầm, nghiên cứu văn học cổ truyền, trong đó có các loại hình truyện cổ, truyền thuyết của các dân tộc bản địa ở Tây Nguyên và đề ra nhiều giải pháp trong thời gian đến. Tuy nhiên, rất ít công trình của các nhà nghiên cứu đi sâu về lĩnh vực này, nhất là từ truyện cổ dân gian các dân tộc ít người để nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau: xã hội học, dân tộc học, đạo đức học.

Có thể bạn quan tâm

Những người giữ hồn dân ca Jrai

Những người giữ hồn dân ca Jrai

(GLO)- Nhằm bảo tồn và phát huy nét đẹp văn hóa của dân tộc Jrai, nhiều nghệ nhân ở xã Ia Rbol (thị xã Ayun Pa, tỉnh Gia Lai) từng ngày âm thầm lưu giữ những làn điệu dân ca như một cách thể hiện tình yêu với cội nguồn.

Lưu giữ “men say” của đại ngàn

Lưu giữ “men say” của đại ngàn

(GLO)- Hiện nay, nhiều gia đình người dân tộc thiểu số ở Gia Lai vẫn giữ nghề ủ rượu cần truyền thống từ men lá tự nhiên. Theo thời gian, họ đã cùng nhau lưu giữ “men say” của đại ngàn, giúp cho thức uống mang đậm dấu ấn văn hóa của cộng đồng các dân tộc ở Tây Nguyên được chắp cánh bay xa.

Gương mặt thơ: Trúc Phùng

Gương mặt thơ: Trúc Phùng

(GLO)- Đây là số cuối cùng của chuyên mục “Gương mặt thơ” trên báo Gia Lai Cuối tuần do tôi phụ trách.Chuyên mục đã đi được hơn 2 năm (từ tháng 10-2022), tới nay đã giới thiệu tác phẩm của hơn 100 nhà thơ nổi tiếng trên thi đàn cả nước.

Người Mường ở xã Ia Lâu “giữ lửa” cồng chiêng

Người Mường ở xã Ia Lâu “giữ lửa” cồng chiêng

(GLO)- Rời quê vào thôn Đà Bắc (xã Ia Lâu, huyện Chư Prông) lập nghiệp đã hơn 30 năm, nhưng cộng đồng người Mường vẫn luôn duy trì và nỗ lực bảo tồn văn hóa cồng chiêng của dân tộc. Với họ, “giữ lửa” cồng chiêng chính là cách làm thiết thực nhất tạo sự gắn kết bền chặt với quê hương, nguồn cội.

Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên là di sản có tiềm năng khai thác kinh tế du lịch. Ảnh: Minh Châu

Những ngày làm hồ sơ “Không gian văn hóa cồng chiêng”

(GLO)- Ngày 23-3-2004, Bộ trưởng Bộ Văn hóa-Thông tin (nay là Bộ Văn hóa-Thể thao và Du lịch) ban hành quyết định về việc xây dựng hồ sơ ứng cử quốc gia “Vùng văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên” là di sản tiếp nối trình UNESCO công nhận là kiệt tác di sản truyền khẩu và phi vật thể của nhân loại.

Về miền di sản

Về miền di sản

(GLO)- Những địa danh lịch sử, điểm di sản là nơi thu hút nhiều người đến tham quan, tìm hiểu. Được tận mắt chứng kiến và đặt chân lên một miền đất giàu truyền thống luôn là trải nghiệm tuyệt vời và xúc động đối với nhiều người.

Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam trở thành Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại

Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam trở thành Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại

(GLO)- Tại Kỳ họp thứ 19 của Ủy ban Liên Chính phủ Công ước 2003 của UNESCO về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể diễn ra tại Thủ đô Asunción (Cộng hòa Paraguay) vào ngày 4-12, UNESCO đã chính thức ghi danh Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam của Việt Nam vào Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.

“Điểm sáng văn hóa vùng biên”

“Điểm sáng văn hóa vùng biên”

(GLO)- Năm 1993, Sở Văn hóa-Thông tin (VH-TT) và Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Gia Lai đã ký kết chương trình phối hợp hành động với nhiều hoạt động thiết thực, trong đó có mô hình “Điểm sáng văn hóa vùng biên”.