Bộ sưu tập tiền cổ giá bạc tỷ ở Hà Nội

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

Giới sưu tập tiền cổ ngày càng quan tâm tới tiền cổ Việt Nam. Để có đầy đủ trọn vẹn bộ tiền Việt trong giai đoạn từ khi năm 1881 đến nay, chủ nhân của chúng phải bỏ ra vài tỷ đồng để mua. Trong bộ tiền này, giấy bạc Đông Dương nhận được sự quan tâm lớn.

Giấy bạc Đông Dương được lưu hành đầu tiên ở Nam kỳ. Sắc lệnh của Tổng thống Pháp ra ngày 5-7-1881 đã quy định đồng bạc Đông Dương là đơn vị dùng trong việc giữ sổ sách cùng soạn ngân sách, và kể từ niên khóa 1882, mọi việc thu chi đều phải dùng đơn vị này.

 

 

Loại này mặt trước ghi bằng hai thứ tiếng Pháp và Anh. Mặt sau ghi chữ Nho "Đông phương hối lý ngân hàng".
 

 

Đến năm 1893, giấy bạc Đông Dương thêm tờ 1 đồng. Năm 1903, bỏ phần tiếng Anh nhưng ghi thêm chữ Cao Miên.
 

 

Bắt đầu từ năm 1919 thì in thêm mệnh giá: 10 cent, 20 cent, 50 cent.
 

 

Vào cuối thế kỷ 19, trên toàn quốc có ba loại tiền cùng lưu hành một lúc là quan tiền - tiền đồng, peso Mexico và đồng bạc Đông Dương. Sau đó không lâu, đồng Đông Dương chiếm vị thế duy nhất.
 

 

Vào ngày 31/11/1946, giấy bạc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Một mặt in chữ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bằng chữ quốc ngữ, chữ Hán và hình Chủ tịch Hồ Chí Minh; một mặt in hình Nông - Công - Binh.
 

 

Các loại giấy bạc đều có số Ả Rập, chữ quốc ngữ, chữ Hán, Lào, Campuchia chỉ mệnh giá, có ký tên Bộ trưởng Bộ Tài chính (Phạm Văn Đồng hoặc Lê Văn Hiến) và Giám đốc Ngân khố trung ương.
 

 

Một mặt in chữ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (chữ Hán và chữ quốc ngữ) và hình Chủ tịch Hồ Chí Minh; một mặt in hình Công - Nông - Binh, hình bộ đội ở chiến trường. Trên tờ giấy bạc có số hiệu, mệnh giá ghi bằng số Ả Rập, chữ quốc ngữ và chữ Hán.
 

 

Sau đó, việc liên lạc giữa địa phương và trung ương có nhiều khó khăn, nên chính quyền trung ương cho phép Trung Bộ và Nam Bộ phát hành tiền riêng. Tiền này có mệnh giá 1 đồng, 5 đồng, 20 đồng, 50 đồng, 100 đồng.
 

 

Hiện tại, giá trị của giấy bạc này rất lớn, có giá trị quy đổi trên dưới 1 triệu đồng. Cá biệt, có một vài mệnh giá có giá trị lên tới 5 triệu đồng/tờ nhờ độ hiếm của chúng.
 

 

Đồng Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam là tiền giấy, với các mệnh giá 10 xu, 20 xu, 50 xu, 1 đồng, 2 đồng, 5 đồng, 10 đồng và 50 đồng. Nó được phát hành bởi Binh chủng Tiền của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam lần đầu vào năm 1963.
 

 

Hiện tại, tiền Giải phóng có trị giá khoảng 500.000 - 900.000 đồng/tờ.
 

 

Tiền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong giai đoạn 1978 - 1985.
 

 

Mệnh giá thấp nhất là 1 hào, 10 hào bằng 1 đồng.
 

 

Tiền Việt được in vào những năm bao cấp.
 

 

Mẫu giấy bạc đầu tiên được vẽ bởi nhóm họa sĩ nổi tiếng đương thời của Hà Nội là Mai Văn Hiến, Nguyễn Đỗ Cung, Nguyễn Văn Khánh, Nguyễn Huyến và sau đó nữa là Nguyễn Sáng, Bùi Trang Chước, Lê Khả.
 

 

Tiền 10.000 đồng năm 1990 hiện đang được rất nhiều khách hàng ưa chuộng. Theo một shop chuyên tiền cổ trên phố Kim Ngưu (Hai Bà Trưng, Hà Nội), sở dĩ tờ 10.000 đồng được ưa chuộng là do nó mang màu đỏ, màu của may mắn và mệnh giá 10.000 cũng đồng nghĩa là trọn vẹn, đầy đủ.

Theo VTCnews

Có thể bạn quan tâm

Già làng “2 giỏi” của xã Ia Phí

Già làng “2 giỏi” của xã Ia Phí

(GLO)- Ông Rơ Châm Khir (SN 1954, làng Kênh, xã Ia Phí, huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai) không chỉ có đôi tay tài hoa vẽ những bức tranh sơn dầu, tượng gỗ dân gian đặc sắc, mà còn là già làng uy tín được cộng đồng tin tưởng.

Phát huy sức mạnh văn hóa

Phát huy sức mạnh văn hóa

Khi các giá trị văn hóa, di sản và nghệ thuật tạo ra lợi nhuận nó không chỉ tự “nuôi sống” mình mà còn góp phần tạo thêm những nguồn lực mới, tác động tích cực đến các lĩnh vực khác của ngành công nghiệp văn hóa.

Đừng để giấc mơ Tây Nguyên ngủ yên trên đỉnh đồi

(GLO)- Người Tây Nguyên làm du lịch không chỉ bằng khu nghỉ dưỡng, mà còn bằng lòng hiếu khách và nghệ thuật kể chuyện. Vậy nên, đừng để giấc mơ Tây Nguyên ngủ yên trên đỉnh đồi mà hãy đánh thức nó bằng chính giọng nói của rừng, bằng bàn tay của bà con và bằng tình yêu với buôn làng của mình.

Qua xứ trầm hương: Di sản văn hóa từ miền duyên hải Khánh Hòa - Bài 1: Di sản văn hóa từ miền duyên hải

Qua xứ trầm hương: Di sản văn hóa từ miền duyên hải Khánh Hòa - Bài 1: Di sản văn hóa từ miền duyên hải

“Khánh Hòa là xứ trầm hương/Non cao biển rộng người thương đi về” - những câu thơ của nhà nghiên cứu Quách Tấn trong biên khảo Xứ trầm hương vừa là sự khẳng định danh xưng của một miền đất, vừa như lời mời gọi lữ khách bốn phương tìm về với thủ phủ của trầm hương Việt Nam.

Kể chuyện buôn làng bằng thanh âm sáo trúc

Kể chuyện buôn làng bằng thanh âm sáo trúc

(GLO)- Ở buôn E Kia (xã Ia Rsai, huyện Krông Pa), ông Hiao Thuyên được biết đến là một nghệ nhân tài hoa khi giỏi cả sáo trúc, biểu diễn cồng chiêng, hát dân ca... Bằng những việc làm thiết thực, ông đã góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc Jrai và xây dựng khối đại đoàn kết ở buôn làng.

Tây Nguyên: Nhịp sống mới dưới những nếp nhà xưa

Tây Nguyên: Nhịp sống mới dưới những nếp nhà xưa

Nhắc đến đại ngàn Tây Nguyên, có lẽ biểu tượng văn hóa “sừng sững” chính là những mái nhà rông, nhà dài truyền thống của đồng bào các dân tộc. Trong những biến chuyển của thời đại, không gian che chở các hộ gia đình và lan tỏa văn hóa cộng đồng ấy khó tránh khỏi những hư hao, nghiêng ngả.

null