Bí ẩn Đền Trần Thương: Nơi lưu giữ nhục thân Đức Thánh Trần?

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

Lần theo câu huyền sử trong dân gian: 'Sinh Kiếp Bạc, thác Trần Thương, hương Bảo Lộc', chúng tôi về thăm đền Trần Thương thuộc thôn Trần Thương, H.Lý Nhân, tỉnh Hà Nam để hiểu thêm về những bí ẩn liên quan đến người anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo.

 Cổng tam quan đền Trần Thương - Ảnh: SƠN KHÊ
Cổng tam quan đền Trần Thương - Ảnh: SƠN KHÊ


Trong lịch sử, nơi chôn cất các bậc đế vương, các bậc anh hùng hào kiệt luôn là những bí ẩn, đặc biệt tại các quốc gia phong kiến phương Đông. Tương truyền, sau khi qua đời, Thành Cát Tư Hãn được chôn giữa sa mạc và sau khi bão cát nổi lên thì không còn dấu tích lăng mộ, trong khi lăng Tần Thủy Hoàng đến nay vẫn chưa được khai quật và khám phá hoàn toàn. Ở Việt Nam, có lẽ chỉ các vua triều Nguyễn có lăng mộ rõ ràng. Phần còn lại hầu hết vẫn là bí ẩn và với bậc anh hùng dân tộc Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn cũng không là ngoại lệ.

“Bí mật chôn cất”

Sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của Ngô Sỹ Liên, quyển 6, kỷ Nhà Trần chép: “Năm Canh Tý (tức năm 1300 - NV), năm Hưng Long thứ 8, Hưng Đạo Đại Vương ốm. Mùa thu, tháng 8 ngày 20, Hưng Đạo Vương Quốc Tuấn qua đời ở Vạn Kiếp (thuộc Hải Dương ngày nay - NV). Khi sắp mất, ông dặn con rằng: Ta chết thì phải hỏa táng, lấy vật tròn đựng xương, bí mật chôn trong vườn An Lạc, rồi san đất và trồng cây như cũ, để người đời không biết chỗ nào, lại phải [làm sao cho] mau mục. Quốc Tuấn giữ Lạng Giang, người Nguyên hai lần vào cướp, ông liên tiếp đánh bại chúng, sợ sau này có thể xảy ra tai họa đào mả chăng. Ông lo nghĩ tới việc sau khi mất lại như thế đấy”.

Lần theo câu huyền sử trong dân gian: “Sinh Kiếp Bạc, thác Trần Thương, hương Bảo Lộc”, chúng tôi về thăm đền Trần Thương thuộc thôn Trần Thương, H.Lý Nhân, tỉnh Hà Nam để hiểu thêm về những bí ẩn liên quan đến Đức Thánh Trần. Nơi đây không chỉ là một ngôi đền thờ cúng bậc anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo như nhiều ngôi đền khác khắp đất nước mà còn lưu giữ những hiện vật quý báu, mang giá trị nghệ thuật kiến trúc và trang trí độc đáo, chứa đựng những bí ẩn của các di sản vật thể lẫn phi vật thể liên quan đến Hưng Đạo Vương. Đền Trần Thương đẹp từ trên cao nhìn xuống, đẹp trong từng chi tiết trang trí và đẹp huyền bí mang tính tâm linh ẩn sau những huyền thoại của ngôi đền.


 

Thanh bảo kiếm được thờ trong đền Trần Thương
Thanh bảo kiếm được thờ trong đền Trần Thương



Lịch sử làng và đền Trần Thương

Có hình dáng như một thiếu nữ phơi mình nơi bãi sông, đền Trần Thương nằm trên thế đất được gọi là “hình nhân bái tượng”, nơi 6 dòng sông nhỏ chụm đầu gọi là “lục đầu khê”. Theo lời ông Phạm Hải Hưng, thủ nhang nhà đền, cách đây hơn 7 thế kỷ, người anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo đã chọn làng Miễu, một làng quê nằm giữa hai con sông lớn là sông Hồng và sông Châu Giang và cũng là nơi hội tụ của 6 nhánh sông nhỏ, 1 trong 6 địa điểm cất giữ kho lương phục vụ cho cuộc chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ 2 vào năm Ất Dậu 1285. Từ đây có đường thủy kết nối với sông Hồng, sông Châu Giang, nối về thành Thăng Long hay về Nam Định (quê hương ngài) và ra biển.

Sau khi hoàn thành công cuộc bảo vệ giang sơn chống quân Nguyên Mông, Hưng Đạo Vương đã về đây phát lương khao quân, khao dân như một sự cảm ơn dân quân cùng sát cánh với triều đình. Truyền thống này được con cháu tái hiện hằng năm vào dịp Tết Thượng Nguyên (rằm tháng giêng âm lịch).

Theo tiến sĩ sử học Ngô Vương Anh thì còn có câu chuyện rằng khi Đức Thánh Trần qua đời, có 5 cỗ quan tài được đưa đi về 5 hướng, làm lễ táng như nhau và cũng được che đậy, xóa dấu tích để không ai biết chính xác nơi nào mới thực sự là nơi thân xác ngài được an nghỉ. Trong khi đó, bản chú thích tại đền Trần Thương ghi lại đến 70 cỗ quan tài.

Xét chiết tự của từ “An Lạc” là nơi Hưng Đạo Vương dặn chôn cất ngài thì từ này có nghĩa là một nơi an lạc chứ không hẳn là một địa danh có tên An Lạc. Nơi nào ngài thực sự an nghỉ, nơi đó được coi là chốn an lạc.

Theo “Hèm” (từ chỉ những chuyện lưu truyền nội bộ trong làng, chỉ có dân làng biết) của làng Trần Thương thì rất có thể nơi đây là một trong những địa điểm bình phong hoặc chính là nơi an nghỉ thật sự của Đức Thánh Trần và hầm ngầm nơi giếng (hố) khẩu nằm ở trung tâm của ngôi đền, chính là nơi mang trong mình những điều huyền bí về nhục thân của ngài.

Ngôi đền được dựng lên sau khi ngài hóa thánh. Làng có tên làng Miễu được chính thức mang tên làng Trần Thương từ thời đó. Cũng theo lời ông Hưng thì Trần Thương có nghĩa là kho lương nhà Trần.

(còn tiếp)

Theo SƠN KHÊ (thanhnien)

Có thể bạn quan tâm

Qua xứ trầm hương: Di sản văn hóa từ miền duyên hải Khánh Hòa - Bài 1: Di sản văn hóa từ miền duyên hải

Qua xứ trầm hương: Di sản văn hóa từ miền duyên hải Khánh Hòa - Bài 1: Di sản văn hóa từ miền duyên hải

“Khánh Hòa là xứ trầm hương/Non cao biển rộng người thương đi về” - những câu thơ của nhà nghiên cứu Quách Tấn trong biên khảo Xứ trầm hương vừa là sự khẳng định danh xưng của một miền đất, vừa như lời mời gọi lữ khách bốn phương tìm về với thủ phủ của trầm hương Việt Nam.

Kể chuyện buôn làng bằng thanh âm sáo trúc

Kể chuyện buôn làng bằng thanh âm sáo trúc

(GLO)- Ở buôn E Kia (xã Ia Rsai, huyện Krông Pa), ông Hiao Thuyên được biết đến là một nghệ nhân tài hoa khi giỏi cả sáo trúc, biểu diễn cồng chiêng, hát dân ca... Bằng những việc làm thiết thực, ông đã góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc Jrai và xây dựng khối đại đoàn kết ở buôn làng.

Tây Nguyên: Nhịp sống mới dưới những nếp nhà xưa

Tây Nguyên: Nhịp sống mới dưới những nếp nhà xưa

Nhắc đến đại ngàn Tây Nguyên, có lẽ biểu tượng văn hóa “sừng sững” chính là những mái nhà rông, nhà dài truyền thống của đồng bào các dân tộc. Trong những biến chuyển của thời đại, không gian che chở các hộ gia đình và lan tỏa văn hóa cộng đồng ấy khó tránh khỏi những hư hao, nghiêng ngả.

Biểu tượng vũ trụ trên cây nêu của người Bahnar

Biểu tượng vũ trụ trên cây nêu của người Bahnar

(GLO)- Người Bahnar quan niệm rằng mọi sự vật, hiện tượng đều có sự hiện diện của thần linh và con người phải tôn trọng, thờ cúng. Vì vậy, họ có nếp sống, sinh hoạt văn hóa với hệ thống lễ hội vô cùng phong phú, gắn với vòng đời người và chu kỳ canh tác nông nghiệp.

Những người “giữ lửa” văn hóa Jrai, Bahnar

Những người “giữ lửa” văn hóa Jrai, Bahnar

(GLO)- Ông Rmah Aleo (làng Pan, xã Dun, huyện Chư Sê) và ông Ayó (làng Piơm, thị trấn Đak Đoa, huyện Đak Đoa, tỉnh Gia Lai) là những người “giữ lửa” và lan tỏa bản sắc văn hóa dân tộc đến cộng đồng buôn làng.

Thì thầm từ gốm Yang Tao

Thì thầm từ gốm Yang Tao

Nhờ may mắn làm cái nghề viết lách nên tôi từng có dịp đến nhiều trung tâm gốm của cả nước. Nghề gốm mỗi nơi mỗi kiểu, sản phẩm đơn giản có, tinh xảo có; quy trình tạo tác thủ công lẫn công nghiệp hóa vài ba công đoạn cũng có.

Cồng chiêng “nhí”: Nối dài mạch nguồn văn hóa

Cồng chiêng “nhí”: Nối dài mạch nguồn văn hóa

(GLO)- Sự ra đời và hoạt động hiệu quả của những đội cồng chiêng “nhí” ở huyện Kbang (tỉnh Gia Lai) không chỉ là kế thừa mà còn trở thành nhịp cầu nối dài mạch nguồn văn hóa truyền thống, để hồn cốt dân tộc tiếp tục sống mãi qua từng thế hệ.

null