Trăm năm Sa Huỳnh muối mặn

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
Giá một bao muối chưa đủ mua tô phở nhưng bao người vẫn dãi nắng dầm sương làm ra hạt muối mang thương hiệu Sa Huỳnh
Dưới tán cây cạnh ngôi miếu nhỏ, những lão diêm tóc nhuốm sương gió đang bàn việc sửa soạn cúng tế tổ nghề muối Sa Huỳnh. Rằm tháng bảy, họ thành kính dâng cúng cỗ chay và hôm sau chuyển sang cỗ mặn.
Bao bận mồ hôi ướt áo
Lễ cúng mặn luôn có con heo quay cùng nhiều sản vật quê hương. Dẫu cuộc sống khó khăn nhưng mâm cỗ luôn tươm tất, thể hiện ghi nhớ công ơn đối với người tạo nên đồng muối giúp bao người có cơm ăn, áo mặc.
Diêm dân Võ Tấn Phát (ngụ xã Phổ Thạnh, huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi) với đôi chân trần bước tập tễnh trên bờ ruộng nóng rát, gánh muối nặng oằn vai. Chiếc đòn gánh kẽo kẹt như tiếng thở than của diêm dân nhọc nhằn trên ruộng muối. Những hạt muối trắng tinh từ trong thúng nghiêng chảy thành đống, cao dần, lấp lóa ánh nắng. Bao bận mồ hôi ướt áo để làm ra hạt muối trắng mang hương vị mặn mà của biển.
 
Chất muối lên xe tải để vận chuyển đi bán. Ảnh: Trang Thy
Có người đặt vè trêu diêm dân: "Nậu nại (dân làm muối) đã dại lại quê (quê mùa)/Mát trời thì về, nắng lại ra phơi". Da của diêm dân ai cũng sạm đen vì nắng gió. "Trời nắng chói chang nhưng chúng tôi vẫn gắng sức san phẳng và đầm chặt nền, đưa nước vào ruộng, kiểm tra độ mặn, cào muối rồi oằn lưng gánh muối. Nước mặn từ biển qua đầm rồi vào ô chứa mươi ngày cho tăng thêm độ mặn. Sau đó, đưa nước vào ruộng phơi nắng, chan thêm nước rồi đảo đều đến 3 ngày thì thành muối" - anh Phát cho biết.
Lão diêm Đỗ Chiếm Nguyên bị "nhiễm mặn" sau hơn nửa thế kỷ gắn với ruộng muối. Trưa nắng, ông ráng sức nâng chiếc đầm gỗ nện chặt nền ruộng sau khi san phẳng. Chốc lát, ông đưa tay áo lau mồ hôi đang chảy thành dòng trên gương mặt sạm đen, hằn vết chân chim. Thấm mệt, ông ngồi trên bờ múc từng thau nước nóng rát như sắp sôi đổ vào ô ruộng muối bên cạnh.
"Nắng càng nhiều thì càng phải ra đồng vì muối mau kết tinh hơn những hôm mát trời. Người không quen hoặc yếu sức là xây xẩm mặt mày, ngất xỉu vì nắng đấy" - ông Nguyên hổn hển.
Ven đường làng, nhiều phụ nữ hối hả dồn muối vào bao để bán cho thương lái. Những bao muối trĩu nặng được cánh đàn ông gắng sức nhấc lên vai rồi vác đến chất lên xe tải. Dáng đi mệt nhọc nhưng những gương mặt sạm đen vẫn nở nụ cười tươi. "Mỗi ký muối chỉ bán được 450-500 đồng nhưng có người mua là vui rồi. Nhiều lúc muối ế phải đến tận nhà tư thương năn nỉ nhưng họ không mua vì chẳng có thị trường tiêu thụ. Nếu giá muối cao thì chúng tôi đỡ khổ" - diêm dân Võ Tấn Nghi bộc bạch.
Chuyện trăm năm
Theo sử liệu, nghề sản xuất muối ở Sa Huỳnh bắt đầu từ hơn 200 năm trước.
Thuở ấy, có người đàn ông họ Ngô từ đất Bắc di cư vào Nam định cư cạnh vùng biển Sa Huỳnh bốn mùa lộng gió. Nơi đây có đầm nước mặn thông với đại dương qua cửa biển Sa Huỳnh. Cạnh đầm nước là khu đất sình lầy với lau cỏ phất phơ trong gió. Lúc rỗi rãi, ông thường dạo quanh bờ đầm thưởng ngoạn trời nước bao la.
Ngày nọ, ông phát hiện vũng nước đọng có lớp màng màu trắng lấp lánh dưới nắng. Ông đưa tay sờ nhẹ, lớp màng vỡ thành những hạt nhỏ mang vị mặn đậm đà khi nếm thử trên đầu lưỡi. Những hạt muối ấy giúp ông ý tưởng sử dụng nguồn nước mặn trong đầm để sản xuất muối. Ông cần mẫn phát dọn, be bờ, tạo thành những ô ruộng vuông vức trước ánh mắt tò mò của cư dân trong vùng.
Sau nhiều ngày chờ đợi, mọi người hồ hởi đón nhận những hạt muối đầu tiên từ tay ông trao tặng. Họ vui mừng khôn xiết rồi gắng sức cùng ông mở mang ruộng đồng, dâng cho đời hạt muối trắng đậm đà hương vị biển khơi.
"Diêm dân ghi nhớ ơn ông nên cùng nhau góp tiền của và công sức xây dựng miếu thờ. Vào ngày rằm và mùng một hằng tháng, chúng tôi sửa soạn hoa quả rồi thắp hương khấn vái, cầu cho mùa màng bội thu, đời sống no đủ. Rằm tháng bảy và ngày hôm sau, chúng tôi tổ chức cúng lớn với đông đảo diêm dân cùng con em làm ăn phương xa trở về tham dự" - cụ Nguyễn Hiến, Trưởng Ban Tế tự miếu thờ tổ nghề muối Sa Huỳnh, cho biết.
Mùa tiếp mùa đi qua đồng muối trong tiếng sóng rì rầm vỗ về bờ cát. Dòng nước mặn từ đại dương qua đầm đến những thửa ruộng để làm ra hạt muối, là tinh hoa của biển và trời. Sau Tết nguyên đán, diêm dân tất bật ra đồng tu sửa bờ, san phẳng và đầm chặt nền ruộng để bước vào vụ mới. Khi những hạt mưa thu làm vơi đi nắng nóng oi ả, họ rời ruộng sau chuỗi ngày "bán mặt cho muối, bán lưng cho trời" để đổi lấy miếng cơm manh áo.
"Thời chiến tranh làm muối cơ cực lắm. Trước Tết, diêm dân chung sức đắp đê ngăn nước giữa đầm và đồng muối bị máy bay Mỹ ném bom phá tan hoang. Mọi người phải gắng sức đắp lại đê trong bom đạn. Nhiều người bị bắn chết khi ra đồng nên phải mò mẫm trên ruộng muối cả trong đêm tối. Bây giờ, nhà nước đắp đê chắc chắn nên chúng tôi đỡ khổ. Dẫu vậy, làm muối vẫn vất vả hơn so với công việc khác nhưng nhiều người vẫn cố giữ nghề. Bởi đây là nghề truyền thống do ông cha truyền lại, bỏ đi không nỡ. Nhưng ngặt nỗi, giá muối quá thấp nên cuộc sống gặp nhiều khó khăn" - lão diêm Trần Ngọc Cảnh cho biết.
Hơn 60 năm gắn bó với ruộng muối, lão diêm Đinh Ngộ nếm trải bao hiểm nguy lẫn nhọc nhằn. Thuở tóc còn để chỏm, ông theo cha mẹ ra đồng sửa ruộng, cào muối. Cuối thập niên 50 của thế kỷ trước, ông tham gia cách mạng ở địa phương. Ban ngày, ông hoạt động cách mạng, đêm tối mò mẫm ra đồng quần quật trên ruộng muối đến tận khuya.
"Lúc ấy, vừa làm vừa canh chừng, sợ địch thả pháo sáng rồi nã đạn từ máy bay" - ông Đinh Ngộ nhớ lại.
Niềm vui thoáng qua
Gần cả vụ quần quật trên mẫu ruộng, vợ chồng ông Nguyên thu được hơn 50 tấn muối. Gia cảnh túng bấn nên ông bán 20 tấn muối để lấy chưa đến 10 triệu đồng.
Đôi mắt đượm buồn nhìn những hạt muối trắng tuột dần khỏi lòng bàn tay chai sần, ông Nguyên thở dài. "Muối rẻ quá nên tôi trữ hơn 30 tấn chờ giá nhích lên. Mỗi ngày, công làm muối chỉ được vài chục ngàn đồng. Vậy nên cái nghèo cứ đeo bám từ đời ông cha đến giờ" - ông Nguyên than thở.
Gia đình ông Nguyễn Thành Út có 4 đời gắn bó với ruộng muối. Gần 40 năm lam lũ trên ruộng đồng, ông Út được diêm dân tín nhiệm bầu giữ chức Chủ tịch Hội đồng Quản trị, Giám đốc HTX Muối 1 Sa Huỳnh. Sản lượng muối của HTX thu hoạch hằng năm trên dưới 4.000 tấn nhưng "lương" của ông chưa đến 1 triệu đồng/tháng. "Bán 4 tạ muối mới được 200.000 đồng, chỉ đủ bỏ phong bì tiệc cưới. Xã viên thu nhập quá thấp nên mỗi năm HTX chỉ thu được vài triệu đồng" - ông Út bộc bạch.
Sáng chớm thu 8 năm trước, hàng trăm diêm dân hớn hở tụ họp tại sân Trường Tiểu học số 3 Phổ Thạnh (xã Phổ Thạnh, huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi) dự buổi công bố thương hiệu muối Sa Huỳnh. Những gương mặt dãi dầu nắng gió rạng ngời niềm vui vì sản phẩm của bao kiếp người "còng lưng" trên ruộng muối được công nhận thương hiệu. Nhiều người chuyền tay nhau xem quyết định công nhận thương hiệu, hể hả nói cười. Có cụ bà chống gậy, chân bước run run đến sờ biểu trưng thương hiệu muối Sa Huỳnh, mắt lệ hoen mi. Họ hy vọng hạt muối sẽ đến tay người tiêu dùng cả nước, mang lại cuộc sống sung túc cho diêm dân.
Nhưng niềm vui thoáng qua như gió giữa trưa hạ oi nồng. Giá muối vẫn rẻ như cho xua tan hy vọng vừa nhen nhóm trong lòng. "Có thương hiệu rồi mà muối vẫn ế. Thi thoảng mươi ngày đầu vụ, giá 1.000 đồng/kg, thời gian còn lại trong năm chỉ 400-500 đồng/kg" - anh Nghi cho biết. 

Nhạc sĩ Nguyễn Đức Toàn viết: “Muối Sa Huỳnh mặn mà tha thiết/Như những tấm lòng hiền hậu thủy chung”. Hạt muối nơi đây mặn dịu, góp phần tạo nên những món ngon cho đời thêm ý vị. Nhưng diêm dân bao đời vẫn lận đận, phận nghèo đeo bám trăm năm.

Vận động dân làm du lịch cộng đồng
Đồng muối Sa Huỳnh có diện tích hơn 116 ha với gần 600 hộ dân tham gia sản xuất. Hằng năm, sản lượng muối Sa Huỳnh trên dưới 8.000 tấn với vụ mùa từ sau Tết nguyên đán đến tháng 7 âm lịch.
"Chúng tôi sẽ vận động người dân đầu tư sản xuất muối sạch, chất lượng cao. Xã cũng sẽ phối hợp đơn vị chức năng giới thiệu, quảng bá muối gắn với văn hóa Sa Huỳnh có niên đại trên dưới 3.000 năm. Bên cạnh đó, xã sẽ vận động người dân tham gia mô hình du lịch cộng đồng, tạo điều kiện cho du khách thưởng ngoạn và trải nghiệm cuộc sống của diêm dân" - ông Vũ Minh Tâm, Chủ tịch UBND xã Phổ Thạnh, cho biết.
Trang Thy (NLĐO)

Có thể bạn quan tâm

Các cổ vật gốm sứ chén, bát, đĩa... được ngư dân nhặt được.

Làng cổ vật

Nép mình bên eo biển Vũng Tàu, thôn Châu Thuận Biển (xã Đông Sơn, huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi) không chỉ nổi tiếng là “làng lặn Hoàng Sa” với truyền thống bám biển, giữ chủ quyền, mà còn được ví như “kho báu” lưu giữ hàng loạt cổ vật từ những con tàu đắm hàng thế kỷ dưới đáy đại dương.

'Phu sâm' ở núi Ngọc Linh

'Phu sâm' ở núi Ngọc Linh

Nhiều doanh nghiệp và người dân lên ngọn núi Ngọc Linh hùng vĩ ở TP.Đà Nẵng thuê môi trường rừng để trồng sâm, mở ra một nghề mới để đồng bào Xê Đăng bản địa mưu sinh suốt nhiều năm qua: 'phu sâm', tức nghề cõng hàng thuê.

Thầy giáo làng đam mê sưu tầm đồ xưa cũ

Thầy giáo làng đam mê sưu tầm đồ xưa cũ

(GLO)- Không chỉ bền bỉ gieo con chữ cho học trò nghèo, thầy Võ Trí Hoàn-Hiệu trưởng Trường Tiểu học và THCS Quang Trung (xã Ia Tul, tỉnh Gia Lai) còn là người đam mê sưu tầm đồ xưa cũ. Với thầy, mỗi món đồ là bài học sống động về lịch sử dân tộc mà thầy muốn kể cho học trò.

Tự hào 2 xã Anh hùng Ia Dơk, Kon Chiêng

Tự hào 2 xã Anh hùng Ia Dơk, Kon Chiêng

(GLO)- Trong kháng chiến chống Mỹ, xã Ia Dơk (tỉnh Gia Lai) là căn cứ cách mạng quan trọng, đồng thời cũng là nơi hứng chịu nhiều đau thương, mất mát. Những cánh đồng từng bị bom cày xới, những mái nhà bình yên hóa tro tàn, bao số phận người dân vô tội bị giặc sát hại.

Thủ lĩnh giữ rừng Hà Ra

Thủ lĩnh giữ rừng Hà Ra

(GLO)- Gần 40 năm gắn bó với rừng, ông Nguyễn Văn Chín-Giám đốc Ban Quản lý rừng phòng hộ Hà Ra (xã Hra, tỉnh Gia Lai) được biết đến như vị “thủ lĩnh giữ rừng” đặc biệt: từ việc biến lâm tặc thành người giữ rừng đến phủ xanh vùng đất cằn cỗi nơi “cổng trời” Mang Yang.

Dệt những sợi kí ức giữa đại ngàn

Dệt những sợi kí ức giữa đại ngàn

Khi sản phẩm công nghiệp ngày càng tràn ngập thị trường thì ở vùng núi rừng Đưng K’nớ (xã Đam Rông 4, tỉnh Lâm Đồng) vẫn còn những người phụ nữ cần mẫn bên khung cửi, kiên nhẫn nhuộm từng sợi chỉ, dệt từng hoa văn. Những tấm thổ cẩm ra đời từ nơi đây là hơi thở níu giữ kí ức truyền thống đại ngàn.

Dặm dài Trường Lũy

Dặm dài Trường Lũy

(GLO)- Trường Lũy là một phức hợp bao gồm: lũy-bảo (đồn)-đường, hình thành từ thời chúa Nguyễn, xây dựng quy mô dưới triều Nguyễn; đi qua địa phận 3 tỉnh trước đây: Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định.

Tuyến 500kV Lào Cai - Vĩnh Yên, những ngày về đích: Cứ điểm dưới chân Hoàng Liên Sơn

Tuyến 500kV Lào Cai - Vĩnh Yên, những ngày về đích: Cứ điểm dưới chân Hoàng Liên Sơn

Trạm biến áp 500kV Lào Cai đang gấp rút hoàn thiện để trở thành điểm khởi đầu của tuyến đường dây 500kV Lào Cai - Vĩnh Yên. Đây là mắt xích chiến lược trong hành trình đưa nguồn điện dồi dào, đặc biệt là thủy điện ở Tây Bắc, vượt núi băng rừng về xuôi để hòa vào lưới điện quốc gia.

Viết giữa mùa măng rừng

Viết giữa mùa măng rừng

(GLO)- Vào tháng 7 đến tháng 11 hằng năm, khi những cơn mưa đầu mùa bắt đầu trút xuống, cũng là lúc người dân vùng cao nguyên Gia Lai lội suối, băng rừng để hái măng - thứ sản vật được người Jrai, Bana gọi là “lộc rừng”.

Xã tỷ phú nơi biên viễn

Xã tỷ phú nơi biên viễn

Trong hai năm 2024-2025, thủ phủ Tây Nguyên trúng đậm cà phê. Chỉ tính riêng huyện Đắk Mil (tỉnh Đắk Nông cũ), các lão nông đã sắm 1.000 ô tô trong năm 2024. Xã Bờ Y (huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum cũ, nay thuộc tỉnh Quảng Ngãi giáp Lào và Campuchia) cũng chung niềm vui ấy...

Những đoản khúc Huế

Những đoản khúc Huế

Hôm ấy, trên xe khi đi qua đoạn đường gần Khách sạn Morin và Trung tâm Nghệ thuật Điềm Phùng Thị ở Huế, nhìn hàng cây rất đẹp, tôi nói với người lái xe: “Nếu thấy cây long não, em chỉ cho anh nhé”. 

Tầm nhìn của người Rục

Tầm nhìn của người Rục

Tầm nhìn (view) đắt giá nhất của người Rục ở bản Ka Ai, xã Dân Hóa, bản Mò O Ồ Ồ, xã Thượng Hóa (Quảng Bình, nay là tỉnh Quảng Trị), đó là ngôi nhà có mặt tiền bao quát đồng lúa.

Vũ Văn Tam Lang & 50 cây violon đặc chế

Vũ Văn Tam Lang và 50 cây violon đặc chế

(GLO)- Cách đây vài năm, khi ngắm 22 cây đàn violon do ông Vũ Văn Tam Lang (phường An Phú, tỉnh Gia Lai) chế tác bằng tất cả tâm huyết được giới chuyên môn đánh giá cao, tôi thầm nghĩ, ông đã có thể tự hài lòng với những gì mình có.

Xanh hóa các chốt dân quân thường trực

Xanh hóa các chốt dân quân thường trực

(GLO)- Khi mới xây dựng, các chốt chiến đấu dân quân thường trực biên giới chỉ có công sự, trận địa chiến đấu. Nhờ bàn tay lao động cần cù của cán bộ, chiến sĩ, chốt được phủ xanh bởi bồn hoa, cây cảnh, thảm cỏ, cây xanh và có vườn tăng gia, ao cá, tạo thêm nét đẹp ở nơi biên cương.

Gìn giữ kỷ vật tri ân

Gìn giữ kỷ vật tri ân

(GLO)- Bảo tàng tỉnh Gia Lai đang lưu giữ hơn 4.000 tài liệu, hình ảnh, hiện vật, kỷ vật có giá trị về 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ; trong đó, có gần 300 hiện vật, tư liệu, hình ảnh về các mẹ Việt Nam anh hùng, liệt sĩ ở vùng đất Bình Định trước đây.

null