Thầy giáo Chử Anh Đào: "Chiến đấu đến hơi thở cuối cùng"

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
(GLO)- “Chiến đấu” là từ mà nhà văn Trung Trung Đỉnh và nhà giáo Chử Anh Đào thường dùng mỗi khi có dịp hội ngộ trên đất Gia Lai. Hơn 3 năm nay, ThS. Chử Anh Đào vướng bệnh hiểm nghèo. Cuối tuần, tôi đến thăm ông ở số 130 Lê Thánh Tôn (TP. Pleiku), nhà giáo hưu trí vẫn ngồi bên máy tính. Ông cười: “Tết nay, mình viết được 3 bài báo. Con người ta sống chết có số cả, mình sẽ chiến đấu đến hơi thở cuối cùng”.
Chử Anh Đào là bút danh, còn tên khai sinh của ông là Chử Lương Đào. Giấy tờ đều ghi sinh năm 1956 nhưng ông ra đời sau đó 1 năm, tại Lâm Thao, Phú Thọ. Ông bảo, chẳng phải tài giỏi gì, nhưng ngày bé thích đi học sớm nên gia đình khai tăng cho 1 tuổi. Theo hệ 10 năm, 16 tuổi, vào đại học; 20 tuổi, ông tốt nghiệp Đại học Sư phạm Thái Nguyên. Cùng năm đó, ông và nhiều bạn đồng khóa vào Gia Lai-Kon Tum nhận công tác.
Thạc sĩ Chử Anh Đào kể: Tháng 9-1977, ông cùng gần 10 tân cử nhân hẹn nhau ở Ga Hàng Cỏ (Hà Nội) lên tàu vào Nam. Xuống Ga Diêu Trì (tỉnh Bình Định), họ bắt xe ngược lên Pleiku. Giữa mùa mưa, thị xã Pleiku khi đó trong mắt những người lần đầu lên cao nguyên thật ái ngại, nếu không muốn nói là buồn.
Tuy thế, với một tâm hồn đa cảm, Chử Anh Đào ngay từ phút đầu tiên đã nhận ra những nét trân quý của vùng đất mới. Người thầy giáo ấy thấy thương những đoàn bà con Jrai, Bahnar đeo gùi đi bộ dọc đường. Ông biết họ vừa đi qua chiến tranh, đời sống vật chất còn muôn vàn khó khăn. Nhưng có lẽ, Chử Anh Đào vào thời điểm ấy chưa ý thức được rằng, những con người lam lũ ấy sẽ trở thành nhân vật trong các tác phẩm sau này của mình.
Dù đang điều trị bệnh, ThS. Chử Anh Đào vẫn đọc và viết mỗi ngày. Ảnh: Nguyễn Quang Tuệ
Dù đang điều trị bệnh, ThS. Chử Anh Đào vẫn đọc và viết mỗi ngày. Ảnh: Nguyễn Quang Tuệ
Ông được phân về Trường Trung học Sư phạm Gia Lai-Kon Tum. Là cơ sở do chế độ cũ để lại nhưng nhà cửa phần lớn mới được xây dựng cách đó vài năm. Ông ngạc nhiên khi lần đầu tiên nghe những người phục vụ được thu dung sau ngày 17-3-1975 gọi mình là “giáo sư” thay vì thầy giáo. Đến bữa, “giáo sư” không phải xuống nhà ăn tập thể mà có “nhân viên” bưng đến tận phòng ở. Lá thư đầu tiên viết cho gia đình, ông đã có những nhận xét rất tốt về nơi mình đang làm việc, đặc biệt là cách ứng xử của các cô bác, anh chị nhà bếp, gác cổng.
Nhiều năm sau này, người ta biết đến một Chử Anh Đào ngay thẳng và mạnh mẽ trong tính cách, một người vui bạn vui bè, cả nể, thích trà và rượu.
Chử Anh Đào tâm sự: Cả nể nhưng ông luôn kiên trì theo đuổi những việc yêu thích. Hồi sinh viên, để có tài liệu học tập, đồng thời thỏa mãn niềm đam mê văn hóa Tây Nguyên, ông đã chép tay toàn bộ cuốn Trường ca Đam San.
Sau này, dù bận bịu đến mấy, kể cả khi đã trở thành cán bộ lãnh đạo của Trường Cao đẳng Sư phạm Gia Lai (2001-2016), là Phó Trưởng ban Dân tộc HĐND tỉnh (2004-2011), ông vẫn giữ nguyên niềm đam mê thuở ban đầu. Mấy chục năm qua, Chử Anh Đào luôn ở trạng thái sẵn sàng đi và viết, bao gồm cả gặp gỡ nhiều “tầng lớp Nhân dân” như cách ông diễn đạt. Ông khẳng định: Bạn bè không thể rời xa; sưu tầm, nghiên cứu, sáng tạo lại càng không thể bỏ.
So với nhiều người chọn viết lách làm công việc chính, Chử Anh Đào vẫn có những đóng góp nổi bật. Bởi, ông vừa là nhà giáo, nhà quản lý bận bịu nhưng cũng đồng thời là người viết đa dạng về thể loại và có những thành công nhất định.
Năm 1986, ông là người “đầu têu” để Sở Giáo dục Gia Lai-Kon Tum khi ấy cho ra đời tập thơ văn chọn lọc “Lung linh ngọn lửa” của nhiều tác giả. Cùng với việc công bố tác phẩm trên các tập san, tạp chí, năm 1989, ông xuất bản cuốn văn xuôi đầu tiên mang tên “Sao mọc”. Những năm sau đó, Chử Anh Đào tiếp tục cho ra mắt bạn đọc gần chục tác phẩm gồm: 2 tập truyện ngắn “Người đàn bà đi trên đường”, “Bức tranh hình vân cẩu”; 2 tập phê bình văn học “Tự thú trước vầng trăng”, “Khúc “đồng dao cho người lớn”; 2 tập tạp văn “Mẹ quê”, “Hồn cây cỏ” và tập ký “Những làng ma tôi đã đi qua”.
Để phục vụ công tác giảng dạy, từ rất sớm, Chử Anh Đào đã là tác giả hoặc đồng tác giả của nhiều công trình có giá trị như: “Phương pháp giảng dạy tiếng Việt cấp 2 phổ thông cơ sở” (1992); các tài liệu giảng dạy ở bậc cao đẳng về tác phẩm chữ Hán, mỹ học, tiếng Jrai, Bahnar; từ điển các ngôn ngữ bản địa, kiến thức địa phương...
Ngồi với nhau một buổi chiều, dù thỉnh thoảng có thoáng chút ưu tư, nhưng tôi không hề thấy nỗi âu lo trên gương mặt Chử Anh Đào. Ông vẫn nói cười vui vẻ, vẫn thảo luận về nhiều vấn đề liên quan đến văn học địa phương và tình hình giáo dục tỉnh nhà. Ông nói: Chẳng có điều gì phải nuối tiếc, vì tôi đã sống khẩn trương từ thời trẻ, đã làm tất cả những gì có thể, không để uổng phí thời gian…
NGUYỄN QUANG TUỆ

Có thể bạn quan tâm

Du hành với “Pleiku xưa và nay”

Du hành với “Pleiku xưa và nay”

(GLO)- Phố núi Pleiku (tỉnh Gia Lai) hơn nửa thế kỷ trước có gì thú vị? Triển lãm ảnh “Ký ức Pleiku” diễn ra tại Bảo tàng tỉnh từ ngày 24-1 đến 21-2 đưa người xem bước vào chuyến du hành trở về Pleiku xưa, thêm cơ sở so sánh với sự phát triển không ngừng của đô thị trung tâm khu vực Bắc Tây Nguyên.

Cỏ xanh về phía cũ

Cỏ xanh về phía cũ

(GLO)- Bài thơ “Cỏ xanh về phía cũ” của Vân Phi như một bức tranh ký ức trầm lắng về mái ấm gia đình, nơi thời gian dường như lặng lẽ quay trở lại qua những hình ảnh quen thuộc, giản dị thấm đượm tình cảm và ký ức sâu sắc khiến người ta thổn thức.

Người gùi hơ’mon về đâu

Người gùi hơ’mon về đâu

(GLO)- Bài thơ Người gùi hơ’mon về đâu của Vân Phi mở ra không gian đẫm hơi men rượu cần, tiếng hát lẫn trong gió khuya và những ký ức chảy trôi theo thời gian, mơ hồ giữa hiện thực và quá khứ. Tất cả như gợi lên sự tiếc nuối, khắc khoải về một giá trị của truyền thống đang dần phai nhạt.

Nhịp xoang

Nhịp xoang

(GLO)- Bài thơ "Nhịp xoang" của Nguyễn Đình Phê mang đậm hơi thở văn hóa Tây Nguyên, tái hiện không khí lễ hội cồng chiêng rộn ràng, nơi con người hòa cùng thiên nhiên và thần linh. Bài thơ không chỉ ca ngợi vẻ đẹp văn hóa mà còn truyền tải tinh thần đoàn kết, gắn bó bền chặt.

Thơ Sơn Trần: Lời hẹn

Thơ Sơn Trần: Lời hẹn

(GLO)- Bài thơ "Lời hẹn" của Sơn Trần không chỉ mô tả vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn là những hẹn ước, kỳ vọng về sự trở về, đoàn tụ, gắn kết. Hình ảnh trong thơ vừa thực tế, vừa thi vị, mang đến cho người đọc cảm nhận ấm áp về tình yêu quê hương, về sự đổi thay tươi đẹp của đất trời vào xuân.

Thơ Vân Phi: Xuân dậy thì

Thơ Vân Phi: Xuân dậy thì

(GLO)- "Xuân dậy thì" của tác giả Vân Phi mang đến những xúc cảm thanh tân về mùa xuân và tình yêu, đưa chúng ta vào không gian tràn đầy sức sống của một buổi sáng quê hương. Mùa xuân được nhen lên trên từng chồi non lộc biếc, và mùa xuân cũng bắt đầu khi tình yêu có những hồi đáp ngọt ngào...

Nụ cười Tây Nguyên

Nụ cười Tây Nguyên

(GLO)- Đi tìm nụ cười Tây Nguyên chính là tìm đến cái đẹp nguyên sơ. Nó ẩn sâu trong đôi mắt, nó hé nhìn qua đôi tay trong vũ điệu, nó giấu mình sau chiếc gùi đầy ắp lúa, bắp và nó cũng chân tình, e ấp khi nói lời thương. Nụ cười ấy hồn hậu, sâu lắng và tự nhiên như núi rừng, sông suối.

Thơ Nguyễn Thanh Mừng: Khảo cổ An Khê

Thơ Nguyễn Thanh Mừng: Khảo cổ An Khê

(GLO)- Bài thơ "Khảo cổ An Khê" như một cách "phượt" về quá khứ, về những dấu tích cổ xưa của Nguyễn Thanh Mừng. Để rồi, ở đó, tác giả lại tự "khảo cổ chính mình", khát khao tìm lại những giá trị thuần khiết, giản dị của con người và văn hóa dân tộc.

Thơ Nguyễn Đức Nam: Đừng buồn nhé, em!

Thơ Nguyễn Đức Nam: Đừng buồn nhé, em!

(GLO)- Bài thơ “Đừng buồn nhé, em!” của Nguyễn Đức Nam phản ánh một thông điệp sâu sắc về thời gian, sự thay đổi và sự chấp nhận trong cuộc sống. Tác giả dùng hình ảnh dòng sông để minh họa cho những chu kỳ trong đời người và những thăng trầm mà mỗi người phải trải qua.

Thơ Lê Vi Thủy: Mùa em

Thơ Lê Vi Thủy: Mùa em

(GLO)- Mùa xuân không chỉ đơn thuần là thời gian mà còn là biểu tượng của sự tái sinh, của tình yêu thương, sự đoàn tụ và những ước nguyện hạnh phúc. Đó cũng chính là thông điệp mà tác giả Lê Vi Thủy gửi gắm đầy nhẹ nhàng, tinh tế trong bài thơ "Mùa em". Mời các bạn cùng đọc.

Thơ Nguyễn Ngọc Hưng: Gọi xuân

Thơ Nguyễn Ngọc Hưng: Gọi xuân

(GLO)- Bài thơ "Gọi xuân" của tác giả Nguyễn Ngọc Hưng mang đậm không khí của mùa đông, song cũng là lời mời gọi, khắc khoải của mùa xuân. Từng câu thơ như một niềm khát khao về sự thay đổi, hồi sinh và tươi mới...

Thơ Lữ Hồng: Suốt mùa tuổi ngọc

Thơ Lữ Hồng: Suốt mùa tuổi ngọc

(GLO)- Mùa xuân vừa đến, cho ta cái cớ để nhìn lại chặng đường dài mình đã đi qua. Thêm một tuổi là thêm nhiều những hạnh ngộ và chia ly, nguyện ước và mong chờ. Nhưng chừng nào còn tha thiết với đời là ta còn “tuổi ngọc”. Bài thơ của tác giả Lữ Hồng dưới đây như thay lời muốn nói...

Thơ Nguyễn Ngọc Hạnh: Quê ngoại

Thơ Nguyễn Ngọc Hạnh: Quê ngoại

(GLO)- Bài thơ "Quê ngoại" của Nguyễn Ngọc Hạnh không chỉ là lời tỏ bày tình cảm quê hương mà còn là một thông điệp sâu sắc về sự gắn bó với cội nguồn. Quê hương dù có xa hay gần, luôn là một phần không thể thiếu trong cuộc đời mỗi người, là điểm tựa để chúng ta tìm về trong những lúc lạc lõng nhất.

Thơ Lê Từ Hiển: Hoa vô thường

Thơ Lê Từ Hiển: Hoa vô thường

(GLO)- "Hoa vô thường" của Lê Từ Hiển mang đậm dấu ấn của sự chiêm nghiệm về cuộc đời, sự vô thường của thời gian qua những biến chuyển của thiên nhiên. Mỗi câu thơ như một khoảnh khắc dịu dàng, mà ở đó, tác giả lặng lẽ nhìn nhận và đón nhận mọi biến động của đời sống...

Thơ Nguyễn Ngọc Hạnh: Giếng xưa

Thơ Nguyễn Ngọc Hạnh: Giếng xưa

(GLO)- Với "Giếng xưa", tác giả Nguyễn Ngọc Hạnh đã khắc họa bức tranh đầy khắc khoải, suy tư về cuộc đời. Khi thời gian lặng lẽ trôi qua, mỗi hình ảnh đều như một lời tâm sự rất riêng tư nhưng cũng thật gần gũi và đầy cảm xúc.

Cuộc thi viết “Pleiku - Khát vọng vươn lên” năm 2025 nhận tác phẩm từ ngày 20-1

Cuộc thi viết “Pleiku - Khát vọng vươn lên” năm 2025 nhận tác phẩm từ ngày 20-1

(GLO)- Nhằm tiếp tục phát huy hiệu quả công tác tuyên truyền, quảng bá hình ảnh, con người phố núi Pleiku, UBND thành phố phối hợp với Báo Gia Lai tổ chức Cuộc thi viết về chủ đề “Pleiku-Khát vọng vươn lên” năm 2025 trên các ấn phẩm của Báo Gia Lai. Ban tổ chức bắt đầu nhận bài từ ngày 20-1.