Sợi tơ mong manh kết nối trăm năm

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

Khi nói đến sưu tầm đồ cổ ở Việt Nam, người ta thường nghe tới đồ gốm, sành sứ, hay đồ gỗ… chứ ít ai biết đến những món đồ vải mà qua đó thể hiện tay nghề thêu huy hoàng, vang danh thế giới của người Việt hàng trăm năm trước.

La Quốc Bảo đánh giá hiện trạng chiếc áo cưới hoàng gia triều Nguyễn vừa được sưu tầm từ Hà Lan.
La Quốc Bảo đánh giá hiện trạng chiếc áo cưới hoàng gia triều Nguyễn vừa được sưu tầm từ Hà Lan.

La Quốc Bảo - một người trẻ thế hệ 9x đã mải miết đi theo sự dẫn dắt những sợi tơ mong manh đó, sưu tầm, nghiên cứu, phục dựng những món đồ vải thêu và kỹ thuật thêu xưa.

Sự “tự ái” đầu tiên

Khi còn theo học tại Australia, Bảo thường đi thăm các bảo tàng, triển lãm trong khu vực và nhận thấy một dấu khuyết thiếu về văn hóa Việt Nam qua góc nhìn quốc tế. Trong lòng người trẻ này đã nhen nhóm một niềm “tự ái thay” cho văn hóa Việt, và dần hình thành mong muốn làm một điều gì đó.

Từ sở thích vẽ, kết hợp yêu thích giày thể thao Converse, Bảo đã vẽ nên những đôi giày với họa tiết lấy từ chiếc áo Nhật Bình thời Nguyễn thật đặc sắc, khiến những hình ảnh sản phẩm trở nên “viral” (lan tỏa) trên các cộng đồng chơi giày. Giờ đây, Bảo đã sở hữu một thương hiệu giày phải gọi là độc nhất vô nhị, với những bản vẽ tay không ở đâu có được, dựa trên những họa tiết, đồ án xưa được nghiên cứu, trích xuất từ trang phục, họa tiết hoa văn thời Nguyễn.

“Ban đầu mình cũng không nghĩ là giày do mình vẽ sẽ được yêu thích như thế. Nhờ sự yêu thích của cộng đồng, mình mới nhận ra rằng, thay vì đọc sách vở hay nghiên cứu, việc đưa yếu tố văn hóa Việt lên thời trang, những sản phẩm ứng dụng thì sẽ được đón nhận nhiều và gắn với đời sống thì sẽ khiến cho chúng sống tốt hơn”, Bảo chia sẻ... Giờ đây La Quốc Bảo đã trở thành một cái tên được tin cậy về trang phục, nghề thêu thời Nguyễn. Đó là hành trình không hề ngắn. Bắt đầu từ những lần đầu bị một số bảo tàng từ chối khi liên hệ xin phép xem cổ vật, từ những bức tranh đầu tiên mua được với không ít nỗi lo sợ bị hàng giả hay bị lừa, từ những cuộc tiếp xúc chưa nhiều thấu hiểu với nghệ nhân thêu xưa, từ những mũi thêu đầu tiên tự mày mò… Từ một món đồ sưu tầm, lên 5 món 10 món, đến bây giờ Bảo đã sở hữu bộ sưu tập khoảng 300 hiện vật, 90% là đồ Việt Nam, có những món đồ quý và có lẽ là duy nhất.

Một số tranh thêu thời Nguyễn trong bộ sưu tầm của La Quốc Bảo. Ảnh: NVCC
Một số tranh thêu thời Nguyễn trong bộ sưu tầm của La Quốc Bảo. Ảnh: NVCC

Tìm về huy hoàng nghề thêu Việt

Những làng thêu nổi tiếng nhất của Việt Nam xưa tập trung ở khu vực Hà Nội và Bắc Ninh. Ông tổ nghề thêu là Lê Công Hành, hiện được thờ phụng ở đình Tú Thị (Hà Nội). Những làng thêu xưa làm tranh với đề tài, hình tượng rất phong phú, từ dân giã như gà chọi, rước sắc thần, hội làng, đi chợ… cho đến cao cấp hơn như long, ly, quy, phụng..

Theo nghiên cứu của La Quốc Bảo, những đồ thêu Việt mang nét rất đặc trưng, khác biệt với đồ thêu của Trung Quốc, nhất là vùng Quảng Đông bấy giờ. Có thể nói, nghề thêu phía Bắc Bộ Việt Nam và vùng Quảng Đông của Trung Quốc khi đó là hai “đối thủ đáng gườm” cạnh tranh nhau kịch liệt trong việc xuất khẩu đồ thêu sang các nước châu Âu.

Đồ thêu Việt Nam có những đặc trưng rất dễ nhận biết, có thể kể đến là mầu sắc và kỹ thuật.

Về mầu sắc, ngày nay nhiều người lầm tưởng người Việt xưa thích mầu trang nhã, do nhiều bức tranh thêu, tấm áo thêu đã bị phai mầu theo thời gian. Nhưng theo La Quốc Bảo, “Người Việt xưa không tập trung những gam mầu đơn giản, nhạt nhòa mà ngược lại rất thích mầu nổi”. Theo Bảo, do Việt Nam nằm trong khu vực nhiệt đới, thảm thực vật, động vật rất nhiều mầu sắc, do đó đồ thêu cũng ưa những mầu bắt mắt, nổi bật. Còn ở Trung Quốc, đặc biệt là mạn phía bắc thì sử dụng mầu đằm hơn, do họ thuộc vùng ôn đới nên thảm thực vật sẽ dịu hơn, và độ gắt của ánh sáng cũng dịu đi.

Bên cạnh đó, lý do chọn mầu nổi một phần nữa là mầu càng nổi càng khó nhuộm, giá càng cao, mà giá càng cao càng chứng minh là người mua giàu có, đẳng cấp và cũng là khẳng định tay nghề đỉnh cao của người thợ. Đó cũng chính là bằng chứng cho thấy trình độ của người thợ thêu và ngành thêu Việt thời xưa đã đạt đẳng cấp thật sự đáng nể.

Cùng với mầu sắc, thì kỹ thuật thêu cũng tạo nên đặc trưng riêng cho nghề thêu Việt. Theo La Quốc Bảo, thì có hai kỹ thuật cực kỳ độc đáo, và đạt đến trình độ đỉnh cao của người Việt thời Nguyễn, đó là kỹ thêu đan rổ và bắt chỉ bó.

Thêu đan rổ là người thợ sẽ độn gòn, tùy tay nghề mà người thợ độn cao hay thấp, kỹ thuật độn mà cao nhất Bảo từng tiếp xúc là độn khoảng 1,5 so với nền thêu. Kỹ thuật đan rổ này ở châu Âu cũng có, nhưng họ thực hiện trên mặt phẳng và đều tăm tắp, còn Việt Nam thì với quan niệm con vật có sự chuyển động, đặc biệt như con rồng nên nghệ nhân thường sẽ đan uốn lượn theo thân rồng cực kỳ uyển chuyển và linh hoạt. Không những thế, người thợ cao tay còn sử dụng phối hợp lên đến 4-5 mầu tơ với sắc độ chuyển rất tinh tế, nên khi căng tấm thêu thì nhìn con rồng như sắp bay lên vậy. Những mặt hàng với lối thêu này của người Việt trước kia đưa đến các triển lãm thuộc địa ở Pháp thường được người Tây rất ca tụng và săn đón.

Kỹ thuật thứ hai là bắt chỉ bó. Bảo nói đó là đặc hữu của người Việt bởi vì gần như không xuất hiện ở các làng nghề thêu khác ở khu vực. Cụ thể, người thợ sẽ dùng loại tơ gọi tơ rối hoặc là tơ nát tức là sợi tơ chưa được se lại. Rồi họ sẽ chụp nhiều sợi to rối vào với nhau, dùng ngón hoặc là mu bàn tay se lại theo một chiều nhất định, tạo ra một cuộn tơ như sợi dây thừng. Lúc này họ mới bắt cuộn thừng này lên bề mặt vải, tạo ra độ sần tự nhiên. Kỹ thuật này thường được dùng tạo hình cái mào gà vì tạo được độ sần sùi như thật vậy.

So sánh với phương Tây, Bảo cho rằng, nhìn từ xa mũi bắt chỉ bó này có thể tạo cảm giác như mũi sa hạt. Nhưng nếu sa hạt rất là kỳ công nó tốn nhân công, tốn thời gian thì mũi bắt chỉ bó lại đỡ tốn kém hơn rất nhiều mà lại tạo hiệu ứng bề mặt rất sinh động.

Bên cạnh đó, điểm đặc sắc cũng tạo ra dễ nhận biết của thêu Việt Nam là thêu độn gòn. Người Việt rất thích thêu theo dạng 3D trong khi ở Trung Quốc thì họ thích thêu phẳng. Đặc biệt là những tạo hình rồng phượng, họ sẽ độn một lớp gòn sau đó chặn một cái mẫu giấy, se cách nhau tầm đâu đó khoảng từ nửa cm tới 1cm, rồi họ mới thêu đè lên, tạo ra một cái hiệu ứng nhô cao.

Trong bộ sưu tập của La Quốc Bảo, có một chiếc áo được chủ nhân mang từ Hà Lan về, trên đó thêu gần 530 bông hoa, được đánh giá là một trong những hiện vật hiếm hoi bậc nhất tại Việt Nam thể hiện phong cách và tay thêu xuất sắc như vậy.

Tất nhiên, trong quá trình giao lưu văn hóa thời kỳ đó, cũng có sự học hỏi lẫn nhau về kỹ thuật thêu giữa Việt Nam và các nước láng giềng. Nhưng người thợ Việt vẫn giữ được sự khác biệt ở điểm là đưa những mô-típ, đồ án như hình ảnh bông hoa sen với cây lúa… vào sản phẩm, tạo nên hình ảnh và nét văn hóa riêng, rất Việt Nam, không thể trộn lẫn.

Một số tranh thêu thời Nguyễn trong bộ sưu tầm của La Quốc Bảo. Ảnh: NVCC
Một số tranh thêu thời Nguyễn trong bộ sưu tầm của La Quốc Bảo. Ảnh: NVCC

Khao khát của nhà sưu tập trẻ

La Quốc Bảo cùng những cộng sự của mình, đã tiếp tục con đường khá là khó khăn và tốn kém: Qua dự án Hoa Quan Lệ Phục, tái hiện vẻ đẹp lộng lẫy của triều phục nhà Nguyễn, khẳng định giá trị truyền thống, sự tinh xảo của nghệ thuật thủ công Việt. Bảo chia sẻ, mục tiêu gần là đưa những sản phẩm phục dựng của mình vào các bảo tàng, triển lãm.

Với mục tiêu đó, nên Bảo luôn tâm nhiệm phải thực hiện phục dựng đồ xưa theo cách khoa học nhất, gần với hiện thực nhất có thể. “Bọn mình không muốn đi theo cách phỏng dựng, vì phỏng dựng sẽ không chính xác, không thể hiện được hết những kỹ thuật và sắc mầu xưa”, Bảo cho biết.

Hành trình nghiên cứu của Bảo không dừng ở Việt Nam, dấu chân của Bảo đã in khắp từ Đài Loan (Trung Quốc), đến Đông, Phước Kiến, Triều Châu (Trung Quốc), sang Singapore và Malaysia, Indonesia. Càng đi, Bảo càng nung nấu câu hỏi: “Việt Nam tại sao vẫn chưa có một công trình đầy đủ nào về nghề thêu?”.

Hiện tại Bảo cũng đang kết hợp với Ngọc Trâm, một nghệ sĩ thực hành, nhà nghiên cứu về thêu Việt Nam để làm một cuốn sách về mỹ thuật. Bởi thực tế là các kỹ thuật thêu có tên gọi quốc tế nhưng ở Việt Nam, hoặc mỗi làng, mỗi người thợ lại có một tên gọi riêng. Do đó, Bảo đang cố gắng tham gia một chương trong sách, để đưa ra cái nhìn khái quát về những đặc trưng tiêu biểu của nghề thêu Việt Nam trong cách tạo hình, cách phối mầu và các đồ án sử dụng. Mục đích là để khi độc giả đọc sách, họ sẽ có định hình trong đầu và nhận biết được đồ thêu Việt Nam khác đồ thêu trong khu vực Đông Á và quốc tế như thế nào, giá trị ra sao.

Từ những sợi tơ mong manh, giá trị mà cha ông để lại qua thăng trầm hàng trăm năm đang được gợi lại.

La Quốc Bảo sinh năm 1997, tốt nghiệp ngành kiến trúc Đại học Mornach (Australia) về nghiên cứu văn hóa và đặc biệt quan tâm đến thời kỳ triều Nguyễn của Việt Nam.

Theo Cao Phượng Diễm (NDO)

Có thể bạn quan tâm

Sê San: Sông kể chuyện đời…

Sê San: Sông kể chuyện đời…

(GLO)- Dòng Sê San miệt mài chở nặng phù sa; sóng nước bồng bềnh không chỉ kể câu chuyện mưu sinh, bảo vệ phên giậu, mà còn gợi mở tương lai phát triển bền vững, góp phần khẳng định vị thế của vùng biên trong hành trình dựng xây quê hương, đất nước.

Chiếc nỏ của người lính trận Ia Drăng

Chiếc nỏ của người lính trận Ia Drăng

(GLO)- Mang ra chiếc nỏ được cất giữ hơn 30 năm, ông Siu Long (làng Gòong, xã Ia Púch, tỉnh Gia Lai)-nhân chứng trong trận đánh thung lũng Ia Drăng 60 năm trước chậm rãi nói: “Tôi muốn tặng món quà Tây Nguyên này cho một người bạn đến từ nước Mỹ”.

Ông Ksor Yung có lối sống trách nhiệm, gần gũi nên được mọi người quý mến. Ảnh: R’Ô Hok

Ksor Yung: Từ lối rẽ sai lầm đến con đường sáng

(GLO)- Từ một người từng lầm lỡ, ông Ksor Yung (SN 1967, ở xã Ia Rbol, tỉnh Gia Lai) đã nỗ lực vươn lên trở thành người có uy tín trong cộng đồng. Ông tích cực tham gia vận động, cảm hóa những người sa ngã, góp phần giữ gìn an ninh trật tự và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc.

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

(GLO)- Giữa bao thiếu thốn của vùng đất Pờ Tó, có một người thầy lặng lẽ, bền bỉ gieo yêu thương cho học trò nghèo. Thầy không chỉ dạy chữ mà còn khởi xướng nhiều mô hình sẻ chia đầy ý nghĩa như: “Tủ bánh mì 0 đồng”, “Mái ấm cho em”, “Trao sinh kế cho học trò nghèo”.

Trung tá Cao Tấn Vân (thứ 2 từ phải sang)-Phó Đội trưởng Phòng An ninh đối ngoại (Công an tỉnh Gia Lai) chụp ảnh cùng đồng đội. Ảnh: NVCC

Cống hiến thầm lặng vì sứ mệnh cao cả

(GLO)- Hành trình "gieo hạt" hòa bình bắt đầu từ những con người bình dị. Những cống hiến thầm lặng của họ vì sứ mệnh cao cả, góp phần tích cực đưa hình ảnh đất nước và con người Việt Nam yêu chuộng hòa bình đến bạn bè quốc tế.

Giới trẻ hào hứng tham gia các khóa học làm đèn lồng Trung thu thủ công

Hồi sinh Trung thu xưa

Giữa phố phường rực rỡ ánh đèn led, đèn ông sao và mặt nạ giấy bồi bất ngờ “tái xuất”, gợi lại ký ức những mùa trăng rằm xưa. Sự trở về của Trung thu truyền thống đã manh nha trong những năm gần đây, được nhiều người trẻ hào hứng đón nhận.

Gặp người lính Thành cổ năm xưa

Gặp người lính Thành cổ năm xưa

(GLO)- Trở về từ cuộc chiến khốc liệt ở Thành cổ Quảng Trị, cựu chiến binh Hồ Anh Hòa ít khi nhắc lại kỷ niệm chiến đấu với gia đình, con cháu. Bởi ông cho rằng, việc cầm súng lao vào cuộc chiến thời điểm ấy là trách nhiệm của một người con yêu Tổ quốc, “không nên công thần”.

Các cổ vật gốm sứ chén, bát, đĩa... được ngư dân nhặt được.

Làng cổ vật

Nép mình bên eo biển Vũng Tàu, thôn Châu Thuận Biển (xã Đông Sơn, huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi) không chỉ nổi tiếng là “làng lặn Hoàng Sa” với truyền thống bám biển, giữ chủ quyền, mà còn được ví như “kho báu” lưu giữ hàng loạt cổ vật từ những con tàu đắm hàng thế kỷ dưới đáy đại dương.

'Phu sâm' ở núi Ngọc Linh

'Phu sâm' ở núi Ngọc Linh

Nhiều doanh nghiệp và người dân lên ngọn núi Ngọc Linh hùng vĩ ở TP.Đà Nẵng thuê môi trường rừng để trồng sâm, mở ra một nghề mới để đồng bào Xê Đăng bản địa mưu sinh suốt nhiều năm qua: 'phu sâm', tức nghề cõng hàng thuê.

Thầy giáo làng đam mê sưu tầm đồ xưa cũ

Thầy giáo làng đam mê sưu tầm đồ xưa cũ

(GLO)- Không chỉ bền bỉ gieo con chữ cho học trò nghèo, thầy Võ Trí Hoàn-Hiệu trưởng Trường Tiểu học và THCS Quang Trung (xã Ia Tul, tỉnh Gia Lai) còn là người đam mê sưu tầm đồ xưa cũ. Với thầy, mỗi món đồ là bài học sống động về lịch sử dân tộc mà thầy muốn kể cho học trò.

Những cây đa trăm tuổi giữa đại ngàn Kon Ka Kinh

Những cây đa trăm tuổi giữa đại ngàn Kon Ka Kinh

(GLO)- Hàng trăm năm qua, những gốc đa lặng lẽ vươn mình trong rừng già Kon Ka Kinh, thấm đủ chuyện nhân sinh để hóa thành "chứng nhân" của đại ngàn. Quần thể đa cổ thụ không chỉ tạo nên cảnh quan kỳ vĩ, mà còn trở thành di sản tinh thần gắn bó với bao thế hệ cư dân sống dựa vào rừng.

Vào mùa xoay chín

Vào mùa xoay chín

(GLO)- Sau hơn 4 năm chắt chiu nhựa sống, hấp thụ tinh hoa đất trời, những cây xoay ở cánh rừng Kbang, Sơn Lang, Đak Rong đã bung hoa kết trái. Vào mùa xoay chín, người dân cũng đón “lộc rừng”, mang về nguồn thu nhập đáng kể.

Dệt những sợi kí ức giữa đại ngàn

Dệt những sợi kí ức giữa đại ngàn

Khi sản phẩm công nghiệp ngày càng tràn ngập thị trường thì ở vùng núi rừng Đưng K’nớ (xã Đam Rông 4, tỉnh Lâm Đồng) vẫn còn những người phụ nữ cần mẫn bên khung cửi, kiên nhẫn nhuộm từng sợi chỉ, dệt từng hoa văn. Những tấm thổ cẩm ra đời từ nơi đây là hơi thở níu giữ kí ức truyền thống đại ngàn.

null