Phát hiện mới về 2 bức tượng cổ quý hiếm ở Việt Nam

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

Bức tượng cổ được người dân phát hiện tại Quảng Ngãi và bức tượng trên ngói thời Trần ở Bảo tàng Lịch sử quốc gia chứa đựng những thông tin thú vị.

Tượng trên ngói thời Trần (mặt trước và mặt bên)
Tượng trên ngói thời Trần (mặt trước và mặt bên)


Vừa qua, tiến sĩ Đoàn Ngọc Khôi, Phó giám đốc Bảo tàng Tổng hợp tỉnh Quảng Ngãi, gửi một số hình ảnh về bức tượng rất hiếm mà bảo tàng đã tiếp nhận từ người dân vào năm 2011 khi họ phát hiện trong lúc đào huyệt mộ ở xã Phổ Thuận, H.Đức Phổ (Quảng Ngãi). Tượng cao 36 cm, bằng đất nung, mô tả một vị tướng mặc áo giáp, tay cầm gươm, tuy nhiên do sơ ý nên người dân đã làm gãy cánh tay đó.

Tiếp đến, trên trang web của Bảo tàng Lịch sử quốc gia baotanglichsu.vn ở mục “Vật liệu trang trí kiến trúc thời Lý - Trần thế kỷ 11 - 14” có nói đến một bức tượng quan võ trên ngói bò bằng đất nung như sau: “Tượng mô tả một quan võ với dáng đứng thẳng, trên thân khắc ô hình thoi và hình lá đề. Đế là ngói bò hình chữ nhật cong, màu đỏ gạch. Tượng cao 27 cm, thuộc thời Trần, thế kỷ 13 - 14”. Được biết, bức tượng này do Viện Viễn Đông Bác cổ để lại.

Qua xem xét hình ảnh 2 tượng nêu trên, tôi nhận thấy 2 chiếc mũ ở 2 tượng rất giống với mũ ở bức tượng Kim Cương thời nhà Đường (618 - 907), hiện được lưu giữ tại Bảo tàng Thượng Hải (Trung Quốc). Có thể thấy chúng đều được thể hiện phần đầu một con hổ và đây chính là loại mũ Đầu hổ của võ quan mà trong sử sách hay nói đến. Thế nhưng, đi vào chi tiết thì 3 chiếc mũ trên 3 tượng có phần khác nhau chút ít ở kiểu dáng. Cụ thể: chiếc mũ trên tượng Kim Cương đời Đường thì nguyên đầu con hổ; mũ ở tượng trên ngói thời Trần ở Bảo tàng Lịch sử quốc gia thì nguyên đầu con hổ còn được thêm miếng vải che sau gáy phủ xuống tới vai tượng; mũ ở tượng được phát hiện ở Quảng Ngãi thì ngoài đầu hổ cùng miếng vải che sau gáy ra, còn được thêm phần vành mũ to và hơi thô, nhìn chung hai phụ kiện này (vành mũ, miếng vải che) khá giống với cách thể hiện ở mũ trụ trên các tượng võ quan thời Lê Trung Hưng. Dù vậy, rõ ràng 3 chiếc mũ có sự liên quan với nhau. Vấn đề được đặt ra là 2 bức tượng phát hiện ở Việt Nam có quan hệ như thế nào với tượng Kim Cương đời Đường, chúng thuộc niên đại nào, có phải cũng là Kim Cương hộ pháp hay không?


 

Tượng Kim Cương đời nhà Đường (Trung Quốc) - ẢNH: TƯ LIỆU CỦA VŨ KIM LỘC
Tượng Kim Cương đời nhà Đường (Trung Quốc) - ẢNH: TƯ LIỆU CỦA VŨ KIM LỘC


Xét về lịch sử thì tỉnh Quảng Ngãi được thành lập vào năm 1471, thời vua Lê Thánh Tông đã cho lập đạo thừa tuyên Quảng Nam (nay là các tỉnh, thành: Quảng Nam, Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Bình Định) gồm 3 phủ là Thăng Hoa, Tư Nghĩa, Hoài Nhân và tỉnh Quảng Ngãi thuộc phủ Tư Nghĩa. Tiếp đến đầu thế kỷ 16 thuộc về thời chúa Nguyễn, rồi đến thế kỷ 19 là triều Nguyễn. Vì lẽ đó mà niên đại của tượng ở Quảng Ngãi không thể xuất xứ từ đời Đường, mà có lẽ khoảng cuối thời Lê Sơ hoặc thời chúa Nguyễn trước khi chúa Nguyễn Phúc Khoát xưng vương. Còn tượng ở Bảo tàng Lịch sử quốc gia thì đã được các nhà nghiên cứu xác định vào thời Trần.

Như vậy, 2 tượng được phát hiện ở Việt Nam có niên đại muộn hơn tượng Kim Cương đời Đường. Đồng thời, qua việc cùng là mũ Đầu hổ nhưng có các điểm khác nhau nêu trên cho thấy mũ ở 2 tượng của Việt Nam đã chịu ảnh hưởng và tiếp thu mũ Đầu hổ của nhà Đường nhưng không phải là “sao y”, mà có sự thêm thắt mỗi thời mỗi khác. Để rồi đến thời chúa Nguyễn Phúc Khoát đã dựa vào rồi chế ra một kiểu mũ Đầu hổ khác, mà hình tượng hổ chỉ còn là dạng phù hiệu gắn trên mũ, đó là mặt hổ phù và các trang sức tượng trưng cho bờm hổ. Kiểu mũ này được tiếp nối đến hết triều Nguyễn.

Về nhân vật thể hiện ở 2 tượng, ngoài chất liệu là đất nung, kích thước cũng rất nhỏ, vì vậy khó có thể cho là để tôn thờ một vị tướng nào đó, mà ở đây lại cho thấy một vấn đề khác. Như bức tượng trên ngói thời Trần có cách thể hiện tương tự bức tượng cầu mưa của Chămpa, nhất là phần dưới với một đầu Makara (thủy quái, biểu tượng của nước) hướng thẳng lên, còn miệng đang nhả ra một người (tượng cầu mưa của Chămpa thì Makara nhả ra con thú). Nếu đúng như vậy thì đây có lẽ là hình tượng Makara đang nhả ra chiến binh, bởi hình tượng này rất phổ biến trong điêu khắc đá của Chămpa và mỹ thuật thời Lý - Trần cũng chịu ảnh hưởng khá nhiều. Hình tượng người chiến binh mà Makara nhả ra ở bức tượng thời Trần càng củng cố thêm bằng chứng là hình ảnh của Kim Cương hộ pháp (người bảo vệ Phật pháp) thì đúng hơn, và bức tượng ở Quảng Ngãi cũng không ngoại lệ. Đồng thời, nhân vật được gọi là người chiến binh của Chămpa chắc cũng là hộ pháp Dvarapala.

Theo VŨ KIM LỘC (thanhnien)

Có thể bạn quan tâm

Những người giữ hồn dân ca Jrai

Những người giữ hồn dân ca Jrai

(GLO)- Nhằm bảo tồn và phát huy nét đẹp văn hóa của dân tộc Jrai, nhiều nghệ nhân ở xã Ia Rbol (thị xã Ayun Pa, tỉnh Gia Lai) từng ngày âm thầm lưu giữ những làn điệu dân ca như một cách thể hiện tình yêu với cội nguồn.

Lưu giữ “men say” của đại ngàn

Lưu giữ “men say” của đại ngàn

(GLO)- Hiện nay, nhiều gia đình người dân tộc thiểu số ở Gia Lai vẫn giữ nghề ủ rượu cần truyền thống từ men lá tự nhiên. Theo thời gian, họ đã cùng nhau lưu giữ “men say” của đại ngàn, giúp cho thức uống mang đậm dấu ấn văn hóa của cộng đồng các dân tộc ở Tây Nguyên được chắp cánh bay xa.

Gương mặt thơ: Trúc Phùng

Gương mặt thơ: Trúc Phùng

(GLO)- Đây là số cuối cùng của chuyên mục “Gương mặt thơ” trên báo Gia Lai Cuối tuần do tôi phụ trách.Chuyên mục đã đi được hơn 2 năm (từ tháng 10-2022), tới nay đã giới thiệu tác phẩm của hơn 100 nhà thơ nổi tiếng trên thi đàn cả nước.

Người Mường ở xã Ia Lâu “giữ lửa” cồng chiêng

Người Mường ở xã Ia Lâu “giữ lửa” cồng chiêng

(GLO)- Rời quê vào thôn Đà Bắc (xã Ia Lâu, huyện Chư Prông) lập nghiệp đã hơn 30 năm, nhưng cộng đồng người Mường vẫn luôn duy trì và nỗ lực bảo tồn văn hóa cồng chiêng của dân tộc. Với họ, “giữ lửa” cồng chiêng chính là cách làm thiết thực nhất tạo sự gắn kết bền chặt với quê hương, nguồn cội.

Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên là di sản có tiềm năng khai thác kinh tế du lịch. Ảnh: Minh Châu

Những ngày làm hồ sơ “Không gian văn hóa cồng chiêng”

(GLO)- Ngày 23-3-2004, Bộ trưởng Bộ Văn hóa-Thông tin (nay là Bộ Văn hóa-Thể thao và Du lịch) ban hành quyết định về việc xây dựng hồ sơ ứng cử quốc gia “Vùng văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên” là di sản tiếp nối trình UNESCO công nhận là kiệt tác di sản truyền khẩu và phi vật thể của nhân loại.

Về miền di sản

Về miền di sản

(GLO)- Những địa danh lịch sử, điểm di sản là nơi thu hút nhiều người đến tham quan, tìm hiểu. Được tận mắt chứng kiến và đặt chân lên một miền đất giàu truyền thống luôn là trải nghiệm tuyệt vời và xúc động đối với nhiều người.

Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam trở thành Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại

Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam trở thành Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại

(GLO)- Tại Kỳ họp thứ 19 của Ủy ban Liên Chính phủ Công ước 2003 của UNESCO về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể diễn ra tại Thủ đô Asunción (Cộng hòa Paraguay) vào ngày 4-12, UNESCO đã chính thức ghi danh Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam của Việt Nam vào Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.

“Điểm sáng văn hóa vùng biên”

“Điểm sáng văn hóa vùng biên”

(GLO)- Năm 1993, Sở Văn hóa-Thông tin (VH-TT) và Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Gia Lai đã ký kết chương trình phối hợp hành động với nhiều hoạt động thiết thực, trong đó có mô hình “Điểm sáng văn hóa vùng biên”.