Trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, Tây Nguyên là vùng đất kiên cường, bất khuất. Nhân dân các dân tộc nơi đây đã tham gia chiến đấu dũng cảm, lập chiến công xuất sắc. Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, nhiều người Tây Nguyên đã được bầu vào cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, trở thành cầu nối giữa cử tri với Quốc hội.
Trong những năm kháng chiến, Tây Nguyên cùng đất nước đứng lên, kề vai sát cánh với cả dân tộc chiến đấu chống lại kẻ thù. Những con cháu ở buôn làng Tây Nguyên nghe theo lời Đảng, lời Bác đứng lên đánh Pháp, đuổi Mỹ và trở thành những anh hùng, như: Đinh Núp, Y Buông, A Sanh, Kpă Ó, Wừu…
Những buôn làng ngày xưa tối tăm, chìm trong áp bức nô lệ đã trở thành những vùng chiến khu kiên trung một lòng theo cách mạng, theo Bác Hồ như Đắk Ui (Quảng Ngãi), Nâm Nung (Lâm Đồng), Chư Djũ (Đắk Lắk), Krong (Gia Lai)...
Đầu năm 1945, phong trào kháng Nhật cứu nước lan rộng, dưới sự lãnh đạo của Bác Hồ và Việt Minh, đồng bào Tây Nguyên cùng cả nước bước vào thời kỳ tiền khởi nghĩa.
Tại Gia Lai, khởi nghĩa nổ ra đầu tiên ở An Khê rồi lan ra Pleiku, Cheo Reo, Chư Ty... Sáng 23-8-1945, hàng vạn quần chúng Pleiku tham gia mít tinh, xóa bỏ chính quyền cũ, lập Ủy ban Cách mạng lâm thời tỉnh. Đầu tháng 9, chính quyền cách mạng được thiết lập trên toàn tỉnh Gia Lai. Nhân dân các dân tộc ở Tây Nguyên đã giành chính quyền về tay mình, từ đó một lòng kiên trung theo Đảng, theo Bác Hồ.
Chỉ trong một thời gian ngắn, với tinh thần khẩn trương và sáng tạo, toàn dân ta đã tổ chức thành công cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội đầu tiên vào ngày 6-1-1946. Qua đó, thành lập Chính phủ liên hiệp kháng chiến do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu. Đây là chính phủ thể hiện ý chí và sức mạnh đoàn kết của toàn dân tộc.
Nằm sâu trong con hẻm nhỏ trên đường Thăng Long (phường Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk), ngôi nhà của bà Linh Nga Niê Kđăm vẫn còn lưu giữ nhiều kỷ vật về người cha kiên trung Y Ngông Niê Kđăm. Trong câu chuyện với chúng tôi, bà kể nhiều chuyện về người cha, từ chuyện thường xuyên đến cơ sở, gần dân, gắn bó với dân đến chuyện ông cương quyết, thẳng thắn trên nghị trường.
Ông Y Ngông Niê Kđăm sinh năm 1922, tại Cư M’gar (tỉnh Đắk Lắk) trong một gia đình nông dân yêu nước. Thời kỳ học tại Quy Nhơn, ông đã từng tham gia hướng đạo sinh, học tiếng Kinh và truyền bá Quốc ngữ, ủng hộ phong trào cứu đói ở miền Bắc. Sau đó, ông bị thực dân Pháp bắt đưa về quê hương.
Đến khi Nhật đảo chính Pháp, Y Ngông tham gia Mặt trận Việt Minh, vận động tổng khởi nghĩa ở Buôn Ma Thuột. Cách mạng Tháng Tám thành công, ông được cử làm Phó Chủ tịch Ủy ban Cách mạng lâm thời tỉnh Đắk Lắk.
Nhắc đến Y Ngông Niê Kđăm, người ta không chỉ nhắc đến người con dân tộc Ê Đê, nhà trí thức yêu nước đã có nhiều đóng góp cho quê hương. Ông còn được nhắc tới vai trò là đại biểu Quốc hội (ĐBQH) 9 khóa liên tục bắt đầu từ khóa I, có nhiều cống hiến vì sự phát triển của Tây Nguyên.
Từ quốc lộ 25 xuôi đèo Chư Sê, chúng tôi về buôn Nú A (xã Uar, tỉnh Gia Lai). Đây là quê hương của ông Nay Phin, một trong những bậc tiền bối cách mạng của Gia Lai. Cách đây gần 80 năm, chàng trai trí thức người Jrai cùng các đồng chí của mình như Ksor Ní, Nay Der đã lãnh đạo người dân nơi đây giành lại chính quyền.
Ông Nay Quyên - Bí thư Đảng ủy xã Uar - cho biết: Những ngày Tháng Tám lịch sử, dưới sự chỉ đạo của Đoàn Thanh niên tỉnh Gia Lai, phong trào cách mạng diễn ra ở nhiều địa phương trong tỉnh. Riêng ở huyện Cheo Reo, các đồng chí Nay Phin và Nay Der cùng nhiều đồng chí khác như Ksor Ní, Rơ Chăm Thép, Rơ Chăm Brêu, Siu Deo, Siu Sing… đã tập hợp, lãnh đạo đồng bào vùng lên đấu tranh chống áp bức bóc lột, giành chính quyền.
Ngày 23-8-1945, cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Pleiku thành công. Hai ngày sau (tức ngày 25-8-1945), dưới sự chỉ đạo của các đồng chí Nay Phin, Nay Der cùng các bậc tiền bối cách mạng khác, phong trào khởi nghĩa cướp chính quyền ở Cheo Reo diễn ra thành công.
Nhiều lần trò chuyện với chúng tôi, bà Nay Lan - nguyên Chủ tịch Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh Gia Lai, con gái của ông Nay Phin - ĐBQH khóa I - vẫn luôn nhắc về cha bằng giọng đầy tự hào và xúc động. Trong ký ức của bà, người cha ấy không chỉ là người cán bộ cách mạng mẫu mực, mà còn là tấm gương về trí tuệ, nghị lực và lòng trung thành tuyệt đối với Đảng, với nhân dân.
Bà cho rằng chính sự gương mẫu, đức độ và lòng sắt son của người cha đã hun đúc trong mình tinh thần trách nhiệm, ý chí phấn đấu và tình yêu quê hương sâu sắc.
“Tôi luôn tự hào về cha và về dòng họ của mình. Tôi cũng như con cháu của ông Nay Der đều vinh dự được thừa hưởng truyền thống cách mạng quý báu đó. Giờ đây, nhiều người thân trong gia đình đã trưởng thành, tiếp nối con đường mà các cụ đã lựa chọn. Đó là điều khiến tôi luôn thấy tự hào và biết ơn”-bà Nay Lan bộc bạch.
Vào ngày 19-4-1946, tại Pleiku, Đại hội Đại biểu các dân tộc thiểu số (DTTS) miền Nam đã diễn ra, thể hiện sự quan tâm của Bác Hồ đối với đồng bào các DTTS miền Nam. Lần đầu tiên đại biểu các DTTS miền Nam về đây tụ hội, nhằm biểu dương tình đoàn kết gắn bó keo sơn của những người cùng chung một nước.
Các ĐBQH người DTTS ở miền Nam như Nay Phin, Y Wang Mlô Duôn Du và các trí thức người DTTS yêu nước như KSor Ní, Y Bih Alêô… đã có nhiều đóng góp để Đại hội thành công, khẳng định sự đoàn kết của đồng bào các DTTS miền Nam với Việt Minh, với Bác Hồ cùng quyết tâm đánh Pháp, bảo vệ chính quyền non trẻ.
Đại hội nhận được sự quan tâm của Đảng và những tình cảm đặc biệt của Bác Hồ kính yêu. Mặc dù bận trăm công nghìn việc, Người vẫn dành thời gian viết bức thư đầy tình nghĩa gửi Đại hội. Mở đầu bức thư, Bác Hồ viết: “Hôm nay, đồng bào khai hội, sum họp một nhà, thật là vui vẻ. Tiếc vì đường sá xa xôi, tôi không đến dự hội được. Tôi tuy xa, nhưng lòng tôi và Chính phủ vẫn gần gũi đồng bào”.
Với tinh thần “đại đoàn kết là sức mạnh”, các ĐBQH khóa I ở Tây Nguyên (đặc biệt là 6 ĐHQH người DTTS) đã tích cực tuyên truyền chủ trương của Đảng, giải thích ý nghĩa của việc đồng bào các DTTS miền Nam cùng nhau hội tụ về Pleiku. Qua đó khẳng định niềm tin son sắt của đồng bào miền núi đối với Đảng, Bác Hồ và Chính phủ cách mạng.
Đóng góp của các đại biểu Quốc hội khóa I ở Tây Nguyên không chỉ là trách nhiệm chính trị, mà còn là biểu tượng của lòng yêu nước, ý chí tự cường của đồng bào các dân tộc nơi đại ngàn.
Nhiều người vẫn gọi Đại hội đại biểu các DTTS miền Nam tại Pleiku là “Hội nghị Diên Hồng” thể hiện tinh thần đoàn kết, quyết tâm của đồng bào nơi đây và tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng để đánh giặc. Đây là bức thư mang ý nghĩa thời đại, lần đầu tiên trong lịch sử khẳng định các dân tộc trên đất nước Việt Nam là anh em ruột thịt. Cũng là lần đầu tiên, người đứng đầu Nhà nước tuyên bố trước toàn thể đồng bào các DTTS rằng: “Tổ quốc này là của tất cả chúng ta”.
Đại hội đại biểu các DTTS miền Nam tổ chức tại Pleiku thể hiện quyết tâm của đồng bào các dân tộc miền Nam đoàn kết, chung sức đồng lòng cùng cùng Đảng và Bác Hồ đánh đuổi thực dân Pháp. Tại đây, vai trò của các ĐBQH khóa I được phát huy cao độ. Đón nhận thư Bác Hồ gửi tới Đại hội, mọi người rất vui. Tuy nhiên, trong ngôn ngữ của người Jrai, Bahnar, Ê Đê… chưa có các thuật ngữ chính trị nói về cách mạng, về Đảng.
Mỗi khi có dịp, chị Nguyễn Thị Diệp (phường Pleiku, tỉnh Gia Lai) lại dắt con đến Quảng trường Đại Đoàn Kết, cùng xem bức thư Bác Hồ gửi Đại hội đại biểu các DTTS miền Nam. Mắt dõi theo từng dòng chữ khắc trên đá, chị nhẹ giọng giảng giải cho con nghe về tình cảm sâu nặng mà Bác Hồ dành cho đồng bào các dân tộc Tây Nguyên.
“Tôi muốn đưa con đến đây để phân tích cho con hiểu về bức thư của Bác cũng như tấm lòng của Người đối với đồng bào các DTTS. Qua đó, con tôi hiểu hơn về truyền thống đại đoàn kết của dân tộc, cố gắng phấn đấu học tập thật tốt để sau này góp sức xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh”- chị Diệp bộc bạch.