Năm tháng đã qua đi, song công lao của các đại biểu Quốc hội trong việc dẫn dắt người dân đến với ánh sáng của Đảng, diễn đàn Quốc hội và chăm lo đời sống người dân vẫn ghi dấu ấn trong lòng cử tri.
Dù đã nghỉ hưu nhưng vai trò của các đại biểu Quốc hội (ĐBQH) người dân tộc thiểu số (DTTS) vẫn luôn in đậm trong tâm trí của cán bộ và nhân dân trên địa bàn.
Ông Diệp Bảo Trung-Bí thư Đảng ủy xã Ia Krêl (tỉnh Gia Lai) cho biết: “Các đồng chí nguyên là ĐBQH như Ksor Phước, Hà Sơn Nhin vừa là Bí thư Tỉnh ủy vừa là đại biểu dân cử của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, họ đã có nhiều đóng góp cho địa phương”.
Chúng tôi đến xã Ia Hiao vào một chiều tháng 10-2025. Trong căn nhà sàn đơn sơ nhìn ra cánh đồng lúa vừa gặt, ông Ksor Ry (người có uy tín của buôn Sô Ma Rơng, xã Ia Hiao, tỉnh Gia Lai) vừa pha trà, vừa nói: “Từ những ngày đầu tham gia tổng tuyển cử năm 1946, đồng bào các DTTS Tây Nguyên đã một lòng tin tưởng và theo Đảng, theo Quốc hội”.
Trên nghị trường, các đại biểu người DTTS là tiếng nói tâm huyết đại diện cho cộng đồng mình; còn khi trở về buôn làng, họ lại hóa thân thành người truyền lửa, đưa nghị quyết của Quốc hội đi vào cuộc sống. Họ chính là minh chứng cho niềm tin xuyên suốt của đồng bào Tây Nguyên, niềm tin đã được hình thành từ mùa Xuân năm 1946 và vẫn sáng mãi đến hôm nay: “Một lòng theo Đảng, theo Quốc hội, vì hạnh phúc của Nhân dân”.
Với người dân Tây Nguyên, ĐBQH không phải là những gương mặt xa lạ, mà là người thân quen của buôn làng, là người luôn lắng nghe và cùng chia sẻ khó khăn với dân.
Các đại biểu quốc hội người dân tộc thiểu số có nhiều đóng góp để bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa phi vật thể cồng, chiêng Tây Nguyên. Ảnh: Trần Phúc Toàn
Trải qua hơn 80 mùa rẫy, già làng Ksor H’Blâm (làng Krông, xã Ia Mơ, tỉnh Gia Lai) không giấu được sự xúc động, phấn khởi khi quê hương mình được đổi thay nhanh chóng qua từng năm.
Già xúc động nói: “Tôi thấy quê hương mình đổi thay từng ngày. Con đường nối làng với trung tâm xã đã được bê tông hóa, con em trong làng được học hành, bệnh viện khang trang hơn, đời sống bà con được cải thiện. Đặc biệt, với sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, công trình thủy lợi Ia Mơr đã được đầu tư xây dựng và đưa nước về tưới mát hàng trăm ha lúa nước trên địa bàn, giúp người dân phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập và giảm nghèo bền vững”.
Với cử tri Y Car Ênuôl (ở phường Ea Kao, tỉnh Đắk Lắk), niềm tin với Quốc hội và các đại biểu người DTTS cũng được thể hiện qua những đổi thay rõ nét trong cuộc sống:
“Các đại biểu đã thay mặt đồng bào Tây Nguyên phản ánh nguyện vọng của người dân ở nghị trường. Họ không chỉ phản ánh đúng những khó khăn ở vùng sâu, vùng xa, mà còn góp phần hoạch định các chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế-xã hội, giảm nghèo bền vững, nâng cao dân trí cho đồng bào các DTTS”.
Làm tròn việc Đảng giao, dân cử, trở về với đời thường, nhiều đại biểu Quốc hội vẫn đóng góp trí tuệ, công sức của mình trong việc nước, việc dân. Đó là việc đồng thuận cao trong chủ trương sáp nhập đơn vị hành chính, thành lập chính quyền địa phương hai cấp hay việc góp ý văn kiện đại hội Đảng các cấp. Trí tuệ, tâm huyết của các đại biểu luôn được cấp ủy, chính quyền ghi nhận.
Từ một Tây Nguyên đói nghèo, lạc hậu, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Bác Hồ, trong đó có vai trò quan trọng của các "cánh chim đầu đàn" như: Y Ngông, Nay Phin, Sô Lây Tăng, Ksor Phước, Y Vêng… vùng đất này đã thực sự đổi thay.
Với chủ trương đưa người dân liên kết với các nông-lâm trường để sản xuất, bà con DTTS ở Tây Nguyên đã chuyển từ tập tục canh tác “đốt, phát, chọc, trỉa” sang tư duy sản xuất hiện đại, áp dụng công nghệ cao, tận dụng được lợi thế của từng địa phương.
Nhiều hộ dân người đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên phát triển kinh tế nhờ tận dụng được lợi thế của từng địa phương. Ảnh: Quang Tấn
Hiện vùng Tây Nguyên có gần 610.000 ha cà phê (chiếm 90% diện tích cà phê cả nước); hồ tiêu có 90.000 ha (chiếm hơn 60%); điều có 83.000 ha (chiếm 28%); cao su hơn 250.000 ha (chiếm 26%); bơ có 2,8 nghìn ha (chiếm hơn 82%); sầu riêng có 12,6 nghìn ha (chiếm 34%); vùng rau, hoa tại Lâm Đồng có hơn 30% diện tích được sản xuất theo hướng công nghệ cao...
Bây giờ, khắp mọi buôn làng đã bừng sáng ánh điện, 98% hộ gia đình đã dùng điện lưới quốc gia.
Bên cạnh đó, các ĐBQH ở Tây Nguyên cũng kiên trì kiến nghị, đề xuất chính sách phát triển hạ tầng năng lượng.
Nhờ đó, trong hành trình phát triển của ngành năng lượng Việt Nam, Tây Nguyên luôn là trung tâm của những công trình thủy điện trọng điểm quốc gia. Từ thủy điện Ia Ly đến các nhà máy Plei Krông, Sê San 3, Sê San 4, Buôn Kuốp, Buôn Tua Srah, Đồng Nai 3-4… Mỗi công trình không chỉ cung cấp hàng chục tỷ kWh điện mỗi năm mà còn góp phần điều tiết nguồn nước, chống hạn và phục vụ sản xuất nông nghiệp.
Riêng thủy điện Ia Ly có vai trò quan trọng trong mạng lưới điện quốc gia, khi cung cấp sản lượng điện ổn định hằng năm. Đặc biệt, sau khi đóng điện tổ máy số 2 của công trình Nhà máy thủy điện Ia Ly mở rộng, tổng công suất thiết kế của công trình thủy điện lớn nhất Tây Nguyên được nâng lên 1.080 MW.
Tính chung toàn vùng, tổng công suất các nhà máy thủy điện đã vượt 5.000 MW, đóng góp khoảng 15-17% sản lượng điện quốc gia, một con số ấn tượng cho thấy tầm quan trọng của “nguồn sáng đại ngàn” trong hệ thống năng lượng Việt Nam.
Trong những năm làm báo, chúng tôi có nhiều dịp được tháp tùng ông Ksor Phước, từ khi còn là Bí thư Tỉnh ủy đến lúc đảm nhiệm cương vị Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội. Với chúng tôi, mỗi chuyến công tác cùng ông đều để lại ấn tượng sâu sắc.
Còn nhớ những năm 2010-2015, vấn đề di cư tự do trở nên nóng bỏng ở Tây Nguyên. Ngày 28-8-2014, trong chuyến khảo sát thực tế và làm việc với lãnh đạo tỉnh Gia Lai, ông Ksor Phước, khi đó là Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội đã phát biểu đầy tâm huyết và thẳng thắn: “Vấn đề dân di cư tự do đã có quy định cụ thể, các đồng chí cứ bám vào đó để thực hiện. Quan điểm của chúng ta là không kỳ thị, không phân biệt dân tộc, vùng miền trong ứng xử với đồng bào”.
Chính sự cương quyết, tận tâm của ông Phước mà các ý kiến của cử tri được gửi đến Quốc hội, Chính phủ, các bộ, ngành. Đến nay, kinh tế-xã hội của Tây Nguyên đã có sự phát triển vượt bậc. Đói, đau bệnh tật dần được đẩy lùi, tỷ lệ hộ đói nghèo giảm hẳn, trong đó, Đắk Lắk hộ nghèo còn khoảng 3%, Lâm Đồng hộ nghèo chỉ còn hơn 1%. Bên cạnh việc đầu tư mở các tuyến đường, cao tốc huyết mạch, đến nay, toàn vùng có 100% số xã có đường ô tô đến trung tâm, thuận lợi trong giao thương, đi lại của người dân.
Trong 80 năm hình thành và phát triển của Quốc hội, các thế hệ ĐBQH người DTTS ở Tây Nguyên đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng cử tri. Có người đã về với cõi Atâu, có người vẫn miệt mài cống hiến trí tuệ, tâm huyết cho quê hương, đất nước.
của đồng bào Tây Nguyên.
Tây Nguyên có vị trí chiến lược về quốc phòng-an ninh. Vì vậy, các thế lực thù địch luôn lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để chống phá khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Các ĐBQH đã tuyên truyền, vận động người dân không nghe theo lời kẻ xấu và phản động FULRO.
Dù ở bất kỳ giai đoạn nào, họ đều trọn vẹn lời hứa với Nhân dân, trở thành tấm gương sáng, nguồn cảm hứng để các thế hệ kế tiếp tiếp tục phát huy truyền thống, góp sức cùng dân tộc bước vào kỷ nguyên mới-kỷ nguyên vươn mình mạnh mẽ.