Mặc dù đảm nhiệm trọng trách lớn ở địa phương nhưng các đại biểu Quốc hội vẫn luôn dành thời gian về cơ sở để lắng nghe tâm tư nguyện vọng của người dân. Từ đó, họ đã kịp thời kiến nghị lên Quốc hội và Chính phủ hoạch định các chủ trương, chính sách phù hợp với địa phương.
Dù đã về với cõi Atau (cõi người chết), song tên tuổi của ông Sô Lây Tăng vẫn luôn khắc ghi trong tâm trí của người dân xã Đắk Kroong, huyện Đắk Glei, tỉnh Kon Tum cũ (nay là xã Đắk Môn, tỉnh Quảng Ngãi). Dù ở cương vị Bí thư Tỉnh ủy, đại biểu Quốc hội (ĐBQH) 3 khóa liên tiếp (khóa VIII, IX, X) nhưng ông luôn gần dân, hễ có thời gian là ông về với buôn làng.
đại biểu Quốc hội (ĐBQH) 3 khóa liên tiếp (khóa VIII, IX, X).
Trò chuyện với chúng tôi, bà Y Thanh-Bí thư Đảng ủy xã Đắk Môn-chia sẻ: “Chúng tôi luôn tự hào vì mảnh đất này đã sinh ra Bí thư Tỉnh ủy Sô Lây Tăng, cũng là ĐBQH ưu tú của buôn làng. Chúng tôi vẫn còn nhớ hình ảnh ông Sô Lây Tăng chung vui thâu đêm bên những ché rượu cần trong những buôn làng vùng sâu; hòa cùng lời hát dân ca, điệu xoang, ôm nhau cùng các già làng ngủ tại nhà rông”.
Mỗi lần đi cơ sở, ông Sô Lây Tăng đều mang theo ít thuốc men, đôi ba món quà giản dị để tặng bà con. Nhưng câu chuyện khiến nhiều người nhớ mãi chính là lần ông tặng áo ấm mình đang mặc cho một người dân nghèo. Đó là một lần về làng Đăk Vớt một ngày mùa đông lạnh buốt, thấy gia cảnh nghèo khó của một cụ già, trên người chỉ có cái khố đóng ngang lưng, ông liền cởi ngay chiếc áo ấm trên người trao cho cụ sở ấm.
Nhiều ĐBQH là người dân tộc thiểu số (DTTS) ở Tây Nguyên sinh ra từ làng, lớn lên bên rừng, được Đảng giáo dục, rèn luyện và trưởng thành. Dù đảm nhận các cương vị khác nhau nhưng họ vẫn đau đáu việc làng, việc xã.
Nhiều lần trò chuyện với chúng tôi, ông Hà Sơn Nhin-nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Gia Lai, ĐBQH khóa XI, XII, XIII-cho rằng: Là ĐBQH được dân bầu, mình phải tranh thủ mọi lúc, mọi nơi để gặp gỡ, lắng nghe ý kiến của người dân. Trước và sau kỳ họp, các đoàn đại biểu đều tiếp xúc cử tri ghi nhận ý kiến của người dân để bàn bạc, kiến nghị lên các cơ quan có liên quan.
Là ĐBQH 4 khóa liên tiếp, đảm nhận cương vị Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội, với ông Ksor Phước, việc gần dân và sát dân là ưu tiên hàng đầu.
“Tôi vẫn thường nói với các đồng chí trong đoàn công tác của mình là xuống cơ sở không được chê mà hãy lắng nghe, nghe để biết và để hiểu cuộc sống của người dân. Mình là đại biểu dân cử nên phải sâu sát, tìm hiểu xem vì sao đời sống của người dân còn khó khăn, mình phải kiến nghị những gì về cơ chế, chính sách để người dân có cuộc sống khá hơn”-ông Phước chia sẻ.
Trong một lần trò chuyện với cán bộ ngành Điện lực, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Kon Tum (cũ) Sô Lây Tăng nói dí dỏm: "Tỉnh tôi có 52% số dân đã có "ti vi" đen trắng". Rồi ông giải thích luôn: "Vì không có điện cho nên dân chỉ “sử dụng” loại ti vi đen trắng đó... Chính vì thế mà tình trạng sinh đẻ vỡ kế hoạch luôn luôn xảy ra”. Mọi người cười vui nhưng đều nghĩ tới trách nhiệm của mình với Kon Tum.
Nhiều người cho biết, ĐBQH Sô Lây Tăng là một trong những người tích cực vận động, ủng hộ xây dựng thủy điện Ia Ly và hệ thống thủy điện trên sông Sê San khi thời điểm đó có nhiều ý kiến trái chiều về việc xây dựng thủy điện Sê San và đường dây 500kv.
Chia sẻ về ông Sô Lây Tăng, bà Y Vêng-nguyên Bí thư Tỉnh ủy Kon Tum, ĐBQH 3 khóa-chia sẻ: Khi còn đương chức, đồng chí Sô Lây Tăng là người tích cực ủng hộ xây dựng nhà máy lọc dầu Dung Quất.
Trong diễn đàn Quốc hội và các buổi làm việc, đồng chí luôn nhấn mạnh: Miền Bắc, miền Nam đều có những nhà máy lớn, miền Trung cũng cần có nhà máy tương xứng để thúc đẩy kinh tế-xã hội phát triển và giải quyết việc làm cho người dân. Từ quan điểm đó, các ĐBQH đã ủng hộ tuyệt đối chủ trương xây dựng nhà máy lọc dầu Dung Quất.
Khi Nhà nước triển khai dự án thủy điện Ia ly-một trong 3 dự án thủy điện lớn nhất cả nước lúc bấy giờ, hàng ngàn hộ dân, phần lớn là đồng bào dân tộc Jrai và Bahnar phải rời bỏ nơi “chôn nhau cắt rốn”. Trong bối cảnh ấy, nhiều vấn đề nhạy cảm được đặt ra: đền bù, giải phóng mặt bằng, bảo đảm sinh kế và ổn định đời sống người dân vùng lòng hồ.
Với cương vị là Trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Kon Tum, ông Sô Lây Tăng đã tham gia nhiều cuộc họp làm việc giữa địa phương với Chính phủ, Bộ Năng lượng (nay là Bộ Công Thương), Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) để bàn thảo về chính sách đền bù, tái định cư.
Quan điểm “thống kê chi tiết, đền bù thỏa đáng, không để dân khiếu kiện” của ông Sô Lây Tăng chính là lời nhắc nhở các cấp, các ngành phải làm đúng-làm đủ-làm trước, tránh tình trạng thi công rồi mới lo xử lý hậu quả.
Trong nghị trường Quốc hội, ông thẳng thắn phản ánh nguyện vọng của cử tri, đề nghị các bộ, ngành tôn trọng tiếng nói của người dân vùng dự án. Ông từng nói: “Làm dân vận không phải chỉ là đi vận động, mà phải biết bảo vệ quyền lợi chính đáng của dân. Dân có tin thì nói gì họ cũng nghe”.
Tương tự, tại các cuộc họp trên, ông Ksor Phước cũng cho rằng: “Thủy điện Ia Ly là công trình lớn của quốc gia, là niềm tự hào của Tây Nguyên, nhưng phải nhớ rằng đây cũng là nơi hàng ngàn hộ dân phải rời bỏ quê cha đất tổ. Làm sao để họ thấy rằng rời đi không phải là mất mát, mà là bắt đầu một cuộc sống mới tốt hơn”.
Nhờ sự kiên định của các ông Sô Lây Tăng, Ksor Phước và đoàn Đại biểu Quốc hội 2 tỉnh: Gia Lai, Kon Tum, quá trình giám sát, kiến nghị, công tác đền bù, giải phóng mặt bằng của thủy điện Ia Ly đã được thực hiện rất chặt chẽ và bài bản so với mặt bằng chung thời điểm đó. Chính phủ và EVN đã chấp thuận nâng mức đền bù, đồng thời bố trí đất sản xuất, đất ở, xây dựng nhà tái định cư cho người dân di dời đến nơi ở mới.
Hàng nghìn hộ dân người Jrai, Bahnar ở các xã Ia Kreng, Ia Ly, Ia Mơ Nông, Ia Phí (huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai cũ) và vùng giáp huyện Sa Thầy (Kon Tum cũ) đã phải rời bỏ nơi gắn bó bao đời để nhường đất cho công trình. Đó là quyết định không dễ dàng, bởi với đồng bào Jrai, Bahnar, mảnh đất cha ông không chỉ là sinh kế mà còn là nơi neo giữ ký ức và tâm linh.
Tuy nhiên, khi chuyển đến nơi ở mới, người dân đối mặt với muôn vàn khó khăn: đất sản xuất ít, đường sá chưa hoàn thiện, khí hậu khắc nghiệt. Nhưng với sự vào cuộc quyết liệt của các vị ĐBQH, chính quyền các địa phương, các chương trình tái định cư, định canh đã được triển khai đồng bộ: làm nhà theo mẫu mới, có điện, có trường học và trạm y tế; giao đất, hỗ trợ giống cây trồng, hướng dẫn kỹ thuật canh tác cà phê, hồ tiêu, cao su; đầu tư hạ tầng giao thông, thủy lợi, điện sinh hoạt, tạo điều kiện để người dân từng bước ổn định đời sống.
Sau hơn 30 năm về nơi ở mới, cuộc sống của người dân đã đổi thay nhanh chóng. Tại các xã Ia Kreng, Ia Ly, Ia Mơ Nông… những vườn cà phê, hồ tiêu xanh ngút tầm mắt, mang lại thu nhập hàng trăm triệu đồng mỗi năm.
Nhớ lại những ngày đầu về nơi ở mới, Rơ Châm Kok (làng Kép 2, xã Ia Ly, tỉnh Gia Lai) kể: Bà con quen với cuộc sống ở vùng đất gắn liền với tổ tiên mình nên khi được Nhà nước vận động di dời sang nơi ở mới để nhường đất cho dự án cũng lo lắng lắm. Nhưng khi được cán bộ phân tích lợi ích kinh tế mang lại từ dự án, rồi hứa sẽ tạo điều tốt nhất về cơ sở hạ tầng cho dân làng về nơi ở mới thì gia đình mình cũng như bà con trong làng đã đồng thuận.
Ông Kok chia sẻ: “Hệ thống điện, đường, trường, trạm dần được Nhà nước đầu tư hoàn thiện, bà con còn được giao đất sản xuất, hỗ trợ cây, con giống, kỹ thuật canh tác để phát triển kinh tế, nhất là từ khi chuyển sang trồng cà phê, cao su… Nhờ đó, đời sống vật chất lẫn tinh thần của người dân đã bắt đầu ổn định, con cái được đến trường để học cái chữ”.
Nhờ chí thú làm ăn, cùng sự quan tâm hỗ trợ về mọi mặt của Nhà nước, gia đình ông Kok đã xây dựng được ngôi nhà đáng mơ ước trên vùng đất mới. Với hơn 2 ha cà phê đang cho thu hoạch và hơn 3 ha trồng dổi, bời lời, hồ tiêu, sau khi trừ chi phí đầu tư, ông Kok thu khoảng 1 tỷ đồng/năm.