Những chuyện kỳ thú đồng tiền Việt Nam: Tiền giấy 'không yêu dân' của Hồ Quý Ly

Theo dõi Báo Gia Lai trênGoogle News

Tiền giấy Thông Bảo Hội Sao là một chính sách kinh tế lớn của Hồ Quý Ly. Tuy nhiên, nó cũng cho thấy sự áp chế của ông khi thực hiện chính sách này.

 Những đồng tiền đúc Thánh Nguyên Thông Bảo thời Hồ. Ảnh tư liệu trong cuốn Lịch sử đồng tiền Việt Nam
Những đồng tiền đúc Thánh Nguyên Thông Bảo thời Hồ. Ảnh tư liệu trong cuốn Lịch sử đồng tiền Việt Nam


In thời Trần, tính công thời Hồ

Khi nhóm tác giả cuốn Lịch sử đồng tiền VN (NXB Hồng Đức, 2021) thực hiện cuốn sách, họ đã mau chóng thống nhất về việc tiền giấy Thông Bảo Hội Sao được tính là đồng tiền của thời Trần hay thời Hồ. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, đồng tiền này được in vào thời Trần Thuận Tông. “Tiền giấy Thông Bảo Hội Sao theo ghi chép của sử biên niên, đó là sản phẩm thuộc về thành tựu của vương triều Trần, do Hồ Quý Ly khởi xướng khi ông nắm nhiều quyền bính của vương triều trong tay. Tuy nhiên ở vương triều Trần, loại tiền giấy này chưa được lưu hành. Triều Hồ mới lưu hành rộng rãi. Do đó, chúng tôi xếp tiền giấy Thông Bảo Hội Sao vào triều Hồ”, sách Lịch sử đồng tiền VN nêu.

GS Đỗ Văn Ninh (Viện Khảo cổ học VN) cũng cho rằng bàn về tiền tệ thời Hồ thì không nên theo thông lệ. Có nghĩa là không nên bắt đầu từ đồng tiền đầu tiên ban hành dưới triều Hồ mà bắt đầu từ loại tiền Thông Bảo Hội Sao vốn ban hành 4 năm trước khi triều Hồ chính thức ra đời. “Nhiều nhà nghiên cứu trước đó cũng nhìn nhận vấn đề như vậy. Các tác giả Trương Hữu Quýnh, Dương Minh, Trần Văn Khang… khi thảo luận về nhân vật Hồ Quý Ly đều coi việc phát hành tiền giấy Thông Bảo Hội Sao là một chính sách cải cách của Hồ Quý Ly”, GS Đỗ Văn Ninh viết.

Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Mùa hạ, tháng 4 năm Bính Tý, niên hiệu Quang Thái năm thứ 9 (1396) bắt đầu phát hành tiền giấy Thông Bảo Hội Sao”. GS Đỗ Văn Ninh cho biết từ năm 1396 cho tới ngày cuối của triều Trần, tiền đồng mang niên hiệu của vua Trần không có. Khi phát hành tiền, Hồ Quý Ly giữ chức Nhập nội phụ chính Thái sư Bình chương quân quốc trọng sự, đeo lân phù bằng vàng, quyền hành lớn nhất trong triều, quyết định mọi việc lớn nhỏ.

Tiền Thông Bảo Hội Sao được sử sách mô tả với các hình vẽ tương đương giá trị khác nhau. Giấy 10 đồng vẽ rau rong. Giấy 3 tiền vẽ sóng. Giấy 1 tiền vẽ mây. Giấy 2 tiền vẽ rùa. Giấy 3 tiền vẽ lân. Giấy 5 tiền vẽ phụng. Giấy 1 quan vẽ rồng…

Không có ý "yêu dân"

Theo Đại Việt sử ký toàn thư, khi tiền Thông Bảo Hội Sao in xong, triều đình cho người đem tiền đi đổi. Cứ một quan tiền đồng đổi lấy tiền giấy 1 quan 2 tiền. Ai làm giả tiền giấy phải tội chết, tịch thu điền sản vào nhà nước. Cấm hẳn việc chứa tiền đồng và thu lại tại Ngao trì ở kinh thành và ở trị sở các xứ.

Việc này được GS Đỗ Văn Ninh lý giải theo hướng Hồ Quý Ly đã bắt chước việc phát hành tiền giấy ở Trung Quốc, nhưng áp dụng ở ta vào lúc cơ sở kinh tế và thương mại chưa đòi hỏi. Chính vì nhà nước áp đặt vượt ra ngoài quy luật phát triển của kinh tế nên phải kèm theo sự cưỡng bức của pháp luật mới giữ cho đồng tiền sống nổi.

GS Đỗ Văn Ninh còn cho rằng tiền giấy Thông Bảo Hội Sao của Hồ Quý Ly đã gây thêm khó khăn cho đời sống, gây thêm mối lo cho nhân dân. Tuy nhiên, triều đình lại giải quyết được nguy cơ kho tàng trống rỗng. Điều đó cho phép họ Hồ, trong một thời gian ngắn ngủi có tiền để xây dựng một quân đội lớn cùng những công trình cũng rất to lớn mà nhiều thời khác không làm nổi. Thành nhà Hồ với quy mô lớn, như nhiều người đã biết, đã được UNESCO công nhận di sản văn hóa thế giới.

Tuy nhiên, triều Hồ cũng có tiền đồng. Năm 1400, bên cạnh tiền giấy Thông Bảo Hội Sao, nhà Hồ cũng đúc tiền Thánh Nguyên Thông Bảo. Khảo cổ học đã phát hiện những đồng tiền mang niên hiệu Thánh Nguyên này (Thánh Nguyên là niên hiệu của Hồ Quý Ly). Với đường kính từ 19 - 21 mm, đây được coi là tiền đúc nhỏ nhất trong tiền cổ VN.

Về đồng tiền Thánh Nguyên Thông Bảo, sách Lịch sử đồng tiền VN cho rằng tiền đúc chủ yếu mang tính biểu trưng, số lượng rất ít và hiếm, có thể loại tiền này không đưa vào lưu thông. Trong khi đó, sách Tiền cổ VN (NXB Khoa học xã hội, 2019) lại cho rằng trong khi thúc đẩy cả nước tiêu tiền giấy, nhà Hồ vẫn cho đúc tiền đồng. Việc này một phần do theo lệ thường để chính thức hóa niên hiệu, phần khác vì phải đáp ứng chi tiêu buộc phải dùng tiền đúc, chẳng hạn như ngoại thương.

Theo GS Đỗ Văn Ninh, triều Hồ vừa mất, tiền giấy cũng mất theo lập tức. Vua Lê Thái Tổ ngay năm thứ hai của vương triều (1429) đã truyền cho các quan bàn phép dùng tiền. Trong lời chiếu của vua có đoạn có người dâng thư xin lấy tiền giấy thay cho tiền thực. Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú chép nhà vua có chiếu: “Tiền giấy là vật vô dụng mà cho lưu hành ở trong dân hữu dụng, thực không phải là cái ý yêu dân dùng của”. Sau đó, tiền giấy không xuất hiện vào thời Lê nữa.

Theo Trinh Nguyễn (TNO)

Có thể bạn quan tâm

Trao giải Cuộc thi đan lát, dệt thổ cẩm truyền thống tạo ra các sản phẩm lưu niệm phục vụ du khách

Trao giải Cuộc thi đan lát, dệt thổ cẩm truyền thống tạo ra các sản phẩm lưu niệm phục vụ du khách

(GLO)- Nằm trong khuôn khổ Tuần lễ hoa dã quỳ-núi lửa Chư Đang Ya, chiều 9-11, tại khu vực sân nhà rông làng Gri, xã Chư Đang Ya (huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai), Sở Văn hóa-Thể thao và Du lịch phối hợp với UBND huyện Chư Păh tổ chức trao giải Cuộc thi đan lát, dệt thổ cẩm truyền thống.

Các nghệ nhân làng Chuet 2 (phường Thắng Lợi) phục dựng lễ báo hiếu cha mẹ tại Làng Văn hóa-Du lịch các dân tộc Việt Nam. Ảnh: Thu

Lễ báo hiếu của người Jrai

(GLO)- Lễ báo hiếu cha mẹ là tập tục văn hóa truyền thống đã có từ xa xưa trong đời sống của cộng đồng người Jrai. Đây là dịp để những người con đền đáp công ơn sinh thành, dưỡng dục và cầu mong thần linh ban sức khỏe cho cha mẹ.

Bảo tồn bản sắc làng Bahnar - Kỳ cuối: Cần phát huy giá trị văn hóa truyền thống

Bảo tồn bản sắc làng Bahnar - Kỳ cuối: Cần phát huy giá trị văn hóa truyền thống

(GLO)- Cách đây gần 18 năm, trong một số công trình điều tra văn hóa các làng đồng bào dân tộc thiểu số ở TP. Pleiku thì người ta xếp một số buôn làng trong khu vực, trong đó có làng Wâu và Ktu (xã Chư Á) là làng tương đối có giá trị, đưa vào diện bảo tồn và phát triển.

Sân trường rộn tiếng cồng chiêng

Sân trường rộn tiếng cồng chiêng

(GLO)- Cứ mỗi buổi sinh hoạt, khuôn viên Trường Phổ thông Dân tộc bán trú THCS Lơ Pang (xã Lơ Pang, huyện Mang Yang, tỉnh Gia Lai) lại rộn ràng tiếng cồng chiêng. Âm thanh quen thuộc ấy đến từ đôi tay nhỏ bé của các em học sinh thuộc Câu lạc bộ (CLB) Cồng chiêng của trường.

Ngân vang giai điệu cồng chiêng

Ngân vang giai điệu cồng chiêng

(GLO)- Suốt 1 tháng qua, sau khi hoàn tất công việc gia đình, những người nông dân Jrai chân chất, mộc mạc ở tổ 6 (phường Sông Bờ, thị xã Ayun Pa, tỉnh Gia Lai) lại say sưa luyện tập đánh cồng chiêng.

Người giữ nghề dệt thổ cẩm ở Ia Rsươm

Người giữ nghề dệt thổ cẩm ở Ia Rsươm

(GLO)- Không chỉ dệt thổ cẩm giỏi, chị Rah Lan H’Nghí (SN 1988, buôn Toát, xã Ia Rsươm, huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai) còn nhiệt tình chỉ dạy cho chị em trong buôn để góp phần bảo tồn và phát huy nét đẹp văn hóa truyền thống của dân tộc.

Bảo tồn bản sắc văn hóa ở TP. Pleiku dưới góc nhìn mới - Kỳ cuối: Giữ gìn, phát huy giá trị di sản văn hóa

Bảo tồn bản sắc văn hóa ở TP. Pleiku dưới góc nhìn mới - Kỳ cuối: Giữ gìn, phát huy giá trị di sản văn hóa

(GLO)- Chính quyền TP. Pleiku đã dành nguồn lực đầu tư để Plei Ốp thành điểm đến của du khách trải nghiệm văn hóa truyền thống và bản sắc dân tộc Jrai thông qua phục dựng một số lễ hội cộng đồng như: cúng giọt nước, pơ thi…

Rơ Châm Nguyên nặng tình với dân ca Jrai

Rơ Châm Nguyên nặng tình với dân ca Jrai

(GLO)-Nhiều năm qua, người dân làng Kte (xã Ia Phí, huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai) luôn dành sự yêu mến và kính trọng đối với bà Rơ Châm Nguyên bởi bà biết hát và lưu giữ nhiều bài dân ca của dân tộc Jrai.

Bảo tồn và phát huy di sản

Bảo tồn và phát huy di sản

Câu chuyện biệt thự “nhà lầu ông Phủ” (ven sông Đồng Nai, TP Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai) xôn xao dư luận những ngày qua như một tín hiệu vừa mừng vừa đáng suy ngẫm. Mừng khi cộng đồng ngày càng quan tâm thiết thực đến các giá trị di sản văn hóa.