Nhà tù khét tiếng nhất Sài Gòn xưa

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News

Thư viện Khoa học Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh (quận 1) vốn là Khám Lớn Sài Gòn - nỗi khiếp sợ của tù nhân và cả người dân với những vụ tử hình công khai, chiếc máy chém có lưỡi dao nặng 50 kg...

Sau khi đánh bại quân Nguyễn chiếm được Nam Kỳ, người Pháp nhanh chóng thiết lập bộ máy cai trị trên vùng đất mới. Một trong những công trình không thể thiếu là hệ thống nhà tù giam giữ tất cả những ai chống đối chính quyền thực dân cũng như các loại tội phạm khác.

Khám Lớn Sài Gòn được xây trong 4 năm, bắt đầu từ năm 1886. Mặt chính ở đường Lagran Dière (nay là đường Lý Tự Trọng), được rào bằng những song sắt; mặt sau giáp đường Espagne (Lê Thánh Tôn); hai bên là đường Mac Mahon (nay là Nam Kỳ Khởi Nghĩa) và Filippini (Nguyễn Trung Trực).

 

Khám Lớn Sài Gòn trên đường Lagran Dière (nay là đường Lý Tự Trọng) do người Pháp cho xây dựng. Ảnh tư liệu.
Khám Lớn Sài Gòn trên đường Lagran Dière (nay là đường Lý Tự Trọng) do người Pháp cho xây dựng. Ảnh tư liệu.


Công trình tọa lạc trên nền đất mà xưa kia là chợ Cây Da Còm. Theo học giả Trương Vĩnh Ký, sở dĩ chợ có tên này vì nó được họp dưới gốc cây da có nhánh khẳng khiu, lá khòm xuống mặt đất. Chợ chuyên bán trống, lọng, yên ngựa và mão tú tài.

Khám đường dài 30 mét, rộng 15 mét, ở giữa có lối đi rộng 2 mét chạy dọc giữa hai dãy khám. Nhà ngục có vẻ ngoài u ám và rùng rợn với 4 mặt tường ngoài được sơn đen, mặt chính được rào kín bằng song sắt. Mỗi phòng giam chỉ có một ô cửa sổ rất nhỏ, trên cao.

Thiết kế như vậy là để thông hơi, cũng để lính canh bên ngoài có thể quan sát trong phòng giam. Tuy nhiên vì thiếu ánh sáng, vệ sinh kém và lượng tù nhân ngày càng tăng nên phòng giam rất ngột ngạt, luôn phát sinh dịch bệnh. Nền phòng giam tô bằng xi măng, các tù nhân nằm một chân bị cùm vào xà lim.

Khám còn có xà lim dành riêng cho những người bị kết án tử hình. Đó là đường hầm kín, dài 5 m, rộng 3 mét, ba mặt là tường, còn lại là một cửa sắt dày, chỉ đục vài lỗ nhỏ để thông hơi, tối tăm, u uất không khác gì địa ngục.

Khám Lớn cùng với Tòa án và Dinh Thống đốc Nam Kỳ nằm ba góc ở trung tâm Sài Gòn là "biểu tượng" cho bộ máy thống trị của chế độ thực dân Pháp ở Nam Kỳ nên được mệnh danh là "Tam giác quỷ" - nỗi khiếp sợ của cả tù nhân và người dân.

Thực dân Pháp đặt một máy chém cao 4,5 mét, lưỡi dao nặng 50 kg được đưa từ Pháp sang năm 1917. Theo một số tài liệu, khoảng năm 1925, tử tù thường bị hành hình giữa đêm với chiếc máy chém khổng lồ đặt giữa đường Lagran Dière (nay là Lý Tự Trọng).

 

Khám Lớn Sài Gòn từng là trại giam lớn nhất Nam Kỳ. Ảnh tư liệu.
Khám Lớn Sài Gòn từng là trại giam lớn nhất Nam Kỳ. Ảnh tư liệu.


Khi tù nhân quá đông, nhà cầm quyền Pháp phải xây thêm nhiều phòng mới, gồm hai dãy nhà một tầng và hai dãy nhà trệt, chia thành nhiều khu vực. Khám Lớn Sài Gòn trở thành nhà tù lớn nhất Nam Kỳ lục tỉnh bấy giờ, có lúc lên tới 2.000 người.

Đây cũng là nơi giam giữ các nhà yêu nước nổi tiếng của Việt Nam như Nguyễn An Ninh, Phan Văn Hùm, Trần Phú, Lê Hồng phong, Ngô Gia Tự, Nguyễn Văn Cừ, Võ Văn Tần, Phan Đăng Lưu, Phạm Văn Đồng, Phạm Hùng, Nguyễn Thị Minh Khai, Lý Tự Trọng...

Hai chiến sĩ cách mạng Lý Tự Trọng và Nguyễn Thị Minh Khai đã bị đưa lên máy chém tại đây. Đây được cho là lý do đường Lagran Dière - mặt chính của Khám Lớn Sài Gòn sau ngày 30-4 mang tên người anh hùng trẻ tuổi Lý Tự Trọng.

Ngày 23-11-1940, cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ thất bại, rất nhiều quân dân Việt kháng Pháp bị bắt. Khám Lớn Sài Gòn, bót Catinat và các đồn khác không đủ chỗ giam giữ; khám lại nằm ở trung tâm thành phố, nơi các cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp diễn ra thường xuyên nên Thống đốc Nam Kỳ phê duyệt kế hoạch xây Khám Chí Hòa tại ấp Chí Hòa (quận 10).  

Năm 1943, nhà tù mới được khởi công. Tuy nhiên, lúc này xảy ra sự kiện Nhật đảo chính Pháp khiến việc xây cất bị gián đoạn, mãi đến ngày 8-3-1953 mới hoàn thành. Thủ tướng Quốc gia Việt Nam lúc bấy giờ là Nguyễn Văn Tâm (cầm quyền từ 23-6-1952 đến 7-12-1953) đã cho phóng thích một số tù nhân ở Khám Lớn Sài Gòn, số còn lại khoảng 1.600 người cùng với chiếc máy chém được chuyển về khám mới Chí Hòa.

 

Thư viện Khoa học Tổng hợp hiện nay. Ảnh: Wikipedia
Thư viện Khoa học Tổng hợp hiện nay. Ảnh: Wikipedia


Kể từ đó, Khám Lớn Sài Gòn chỉ còn là nơi giam giữ phụ và sau đó bị chính quyền Việt Nam Cộng Hòa phá hủy để xây Trường Đại học Văn Khoa (thành lập năm 1957, trực thuộc Viện Đại học Sài Gòn), sau đó thành Thư viện Quốc gia và hiện là Thư viện Khoa học Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh.

Khám lớn được xây dựng thành Thư viện Quốc Gia dựa vào đồ án thiết kế của hai kiến trúc sư Bùi Quang Hạnh và Nguyễn Hữu Thiện với sự cộng tác của cố vấn kỹ thuật là Kiến trúc sư Lê văn Lắm. Thủ tướng chính quyền VNCH Trần Văn Hương đã đặt viên đá đầu tiên khởi công và công trình được hoàn thành năm 1971.

Thư viện rộng hơn 7.000 m2, kinh phí xây dựng lên đến 177 triệu đồng thời giá bấy giờ. Nhà thầu phải dùng tới 100.000 công thợ, 500 tấn sắt và 27.000 bao xi măng ròng rã 3 năm mới hoàn thành. Công trình bao gồm hai khối: khối thứ nhất là một dãy nhà dài 71 mét, ngang 23 mét gồm một hầm, một tầng trệt và hai lầu, một sân thượng ở lầu hai; khối thứ hai nằm ở trung tâm, hình vuông và vươn lên cao như ngọn tháp với 14 tầng, cao 43 mét, chứa tài liệu.

Đây là thư viện lớn nhất Việt Nam, có 53 nhân viên phục vụ với khoảng 100.000 bản tài liệu.

Hiện tại, không tính báo, tạp chí, tài liệu cổ in trên da, ấn bản phim, sách nói cho người kiếm thị… chỉ riêng sách thì thư viện có hơn nửa triệu ấn phẩm. Trong đó có nhiều tài liệu quý như bộ sưu tập khá đầy đủ xuất bản phẩm in ở Ðông Dương cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX; các tài liệu xuất bản trong vùng tạm chiếm, những năm kháng chiến chống Pháp và Mỹ, có những cuốn in bằng chữ Nho và Pháp ngữ đã gần 300 năm cực kỳ giá trị vì nó là độc bản.

Theo Vnexpress

Có thể bạn quan tâm

Sê San: Sông kể chuyện đời…

Sê San: Sông kể chuyện đời…

(GLO)- Dòng Sê San miệt mài chở nặng phù sa; sóng nước bồng bềnh không chỉ kể câu chuyện mưu sinh, bảo vệ phên giậu, mà còn gợi mở tương lai phát triển bền vững, góp phần khẳng định vị thế của vùng biên trong hành trình dựng xây quê hương, đất nước.

Chiếc nỏ của người lính trận Ia Drăng

Chiếc nỏ của người lính trận Ia Drăng

(GLO)- Mang ra chiếc nỏ được cất giữ hơn 30 năm, ông Siu Long (làng Gòong, xã Ia Púch, tỉnh Gia Lai)-nhân chứng trong trận đánh thung lũng Ia Drăng 60 năm trước chậm rãi nói: “Tôi muốn tặng món quà Tây Nguyên này cho một người bạn đến từ nước Mỹ”.

Ông Ksor Yung có lối sống trách nhiệm, gần gũi nên được mọi người quý mến. Ảnh: R’Ô Hok

Ksor Yung: Từ lối rẽ sai lầm đến con đường sáng

(GLO)- Từ một người từng lầm lỡ, ông Ksor Yung (SN 1967, ở xã Ia Rbol, tỉnh Gia Lai) đã nỗ lực vươn lên trở thành người có uy tín trong cộng đồng. Ông tích cực tham gia vận động, cảm hóa những người sa ngã, góp phần giữ gìn an ninh trật tự và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc.

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

Bền bỉ gieo yêu thương nơi vùng đất khó

(GLO)- Giữa bao thiếu thốn của vùng đất Pờ Tó, có một người thầy lặng lẽ, bền bỉ gieo yêu thương cho học trò nghèo. Thầy không chỉ dạy chữ mà còn khởi xướng nhiều mô hình sẻ chia đầy ý nghĩa như: “Tủ bánh mì 0 đồng”, “Mái ấm cho em”, “Trao sinh kế cho học trò nghèo”.

Trung tá Cao Tấn Vân (thứ 2 từ phải sang)-Phó Đội trưởng Phòng An ninh đối ngoại (Công an tỉnh Gia Lai) chụp ảnh cùng đồng đội. Ảnh: NVCC

Cống hiến thầm lặng vì sứ mệnh cao cả

(GLO)- Hành trình "gieo hạt" hòa bình bắt đầu từ những con người bình dị. Những cống hiến thầm lặng của họ vì sứ mệnh cao cả, góp phần tích cực đưa hình ảnh đất nước và con người Việt Nam yêu chuộng hòa bình đến bạn bè quốc tế.

Giới trẻ hào hứng tham gia các khóa học làm đèn lồng Trung thu thủ công

Hồi sinh Trung thu xưa

Giữa phố phường rực rỡ ánh đèn led, đèn ông sao và mặt nạ giấy bồi bất ngờ “tái xuất”, gợi lại ký ức những mùa trăng rằm xưa. Sự trở về của Trung thu truyền thống đã manh nha trong những năm gần đây, được nhiều người trẻ hào hứng đón nhận.

Gặp người lính Thành cổ năm xưa

Gặp người lính Thành cổ năm xưa

(GLO)- Trở về từ cuộc chiến khốc liệt ở Thành cổ Quảng Trị, cựu chiến binh Hồ Anh Hòa ít khi nhắc lại kỷ niệm chiến đấu với gia đình, con cháu. Bởi ông cho rằng, việc cầm súng lao vào cuộc chiến thời điểm ấy là trách nhiệm của một người con yêu Tổ quốc, “không nên công thần”.

Các cổ vật gốm sứ chén, bát, đĩa... được ngư dân nhặt được.

Làng cổ vật

Nép mình bên eo biển Vũng Tàu, thôn Châu Thuận Biển (xã Đông Sơn, huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi) không chỉ nổi tiếng là “làng lặn Hoàng Sa” với truyền thống bám biển, giữ chủ quyền, mà còn được ví như “kho báu” lưu giữ hàng loạt cổ vật từ những con tàu đắm hàng thế kỷ dưới đáy đại dương.

'Phu sâm' ở núi Ngọc Linh

'Phu sâm' ở núi Ngọc Linh

Nhiều doanh nghiệp và người dân lên ngọn núi Ngọc Linh hùng vĩ ở TP.Đà Nẵng thuê môi trường rừng để trồng sâm, mở ra một nghề mới để đồng bào Xê Đăng bản địa mưu sinh suốt nhiều năm qua: 'phu sâm', tức nghề cõng hàng thuê.

Thầy giáo làng đam mê sưu tầm đồ xưa cũ

Thầy giáo làng đam mê sưu tầm đồ xưa cũ

(GLO)- Không chỉ bền bỉ gieo con chữ cho học trò nghèo, thầy Võ Trí Hoàn-Hiệu trưởng Trường Tiểu học và THCS Quang Trung (xã Ia Tul, tỉnh Gia Lai) còn là người đam mê sưu tầm đồ xưa cũ. Với thầy, mỗi món đồ là bài học sống động về lịch sử dân tộc mà thầy muốn kể cho học trò.

Những cây đa trăm tuổi giữa đại ngàn Kon Ka Kinh

Những cây đa trăm tuổi giữa đại ngàn Kon Ka Kinh

(GLO)- Hàng trăm năm qua, những gốc đa lặng lẽ vươn mình trong rừng già Kon Ka Kinh, thấm đủ chuyện nhân sinh để hóa thành "chứng nhân" của đại ngàn. Quần thể đa cổ thụ không chỉ tạo nên cảnh quan kỳ vĩ, mà còn trở thành di sản tinh thần gắn bó với bao thế hệ cư dân sống dựa vào rừng.

Vào mùa xoay chín

Vào mùa xoay chín

(GLO)- Sau hơn 4 năm chắt chiu nhựa sống, hấp thụ tinh hoa đất trời, những cây xoay ở cánh rừng Kbang, Sơn Lang, Đak Rong đã bung hoa kết trái. Vào mùa xoay chín, người dân cũng đón “lộc rừng”, mang về nguồn thu nhập đáng kể.

Dệt những sợi kí ức giữa đại ngàn

Dệt những sợi kí ức giữa đại ngàn

Khi sản phẩm công nghiệp ngày càng tràn ngập thị trường thì ở vùng núi rừng Đưng K’nớ (xã Đam Rông 4, tỉnh Lâm Đồng) vẫn còn những người phụ nữ cần mẫn bên khung cửi, kiên nhẫn nhuộm từng sợi chỉ, dệt từng hoa văn. Những tấm thổ cẩm ra đời từ nơi đây là hơi thở níu giữ kí ức truyền thống đại ngàn.

null