Người quyết định lấy Tết Trung thu là quốc lễ

Theo dõi Báo Gia Lai trên Google News
Vua Minh Mạng là người chuẩn định việc lấy Tết Trung thu là quốc lễ, như các Tết chính khác của đất nước.
Bộ chính sử của triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, viết rằng, năm Minh Mạng thứ 16 (1835), mùa thu, tháng 9, triều đình bắt đầu định thêm thể lệ các tiết lễ hằng năm.
Bộ sử viết, nhà vua dụ nội các rằng: “Nhà nước xét theo phép xưa, làm sáng điển lễ. Hằng năm có 5 kỳ tế hưởng ở nhà tôn miếu, cho đến các tết như Nguyên đán, Thanh minh, Đoan dương, Trừ tịch đều có lễ tiến cúng để tỏ thành kính. Lễ nghi và ý nghĩa đã là chu đáo. Lại nghĩ: Những ngày tuần tiết như: Thượng nguyên (15/1), Hạ nguyên (15/10), Trung nguyên (15/7), Thất tịch (7/7), Trung thu (15/8), Trùng dương (9/9), Đông chí (ngày 22 hoặc 23 tháng 12 dương lịch), người xưa cũng có cúng lễ, mà tục nước ta thật thà chất phác chưa cử hành được hết. Vậy sai bộ Lễ tham bác xưa nay, châm chước kiến nghị, tâu lên trẫm nghe”.
Vua Minh Mạng là người quy định Tết Trung thu là chính lễ của triều đình. Ảnh: Chân dung vua Minh Mạng qua nét vẽ của người Pháp.
Vua Minh Mạng là người quy định Tết Trung thu là chính lễ của triều đình. Ảnh: Chân dung vua Minh Mạng qua nét vẽ của người Pháp.
Đến khi lời bàn của quần thần dâng lên thì vua chuẩn định: Từ nay, phàm những tiết Đông chí, Thượng nguyên, Trung nguyên và Hạ nguyên đều làm cỗ bàn dâng cúng các miếu và điện Phụng Tiên (thờ vua Gia Long và hoàng hậu), lễ nghi như lễ tiết Đoan dương (riêng tiết Thượng nguyên, gặp ngày đản ở điện Phụng Tiên thì những lễ phẩm cứ chiếu theo lệ, bày đặt như cũ, không phải làm thêm cỗ bàn). Còn những tiết Thất tịch, Trung thu và Trùng dương đều dùng hoa quả nước trà và của ngon vật lạ (ngày Đông chí, làm lễ 3 tuần rượu; các tiết khác làm lễ 1 tuần rượu). Vào những tiết Thượng nguyên và Trung thu, thì treo đèn suốt đêm để nêu bật ngày Tết nhằm thời tiết đẹp.
Đến năm sau là năm Minh Mạng thứ 17 (1836), triều đình nhà Nguyễn quy định rõ việc chuẩn bị lễ vật, để dâng cúng trong các dịp lễ tiết này. Triều thần bàn rằng, đất nước lấy nông nghiệp làm đầu, việc cúng tế cốt cầu mong cho mưa thuận gió hòa, giảm bớt thiên tai, nên hằng năm, về tết Trung nguyên ở các miếu và điện Phụng Tiên đều theo lệ Tết Nguyên đán, bày mũ đai, xiêm, áo bằng đồ mã, vàng giấy, bạc giấy, mâm giấy, hòm giấy, kho giấy; khi lễ xong, đốt mã đi và theo lệ như hai tiết Thượng nguyên, Trung thu, thắp đèn suốt đêm.
Theo lệ thường, các vua triều Nguyễn thiết đại triều vào các ngày mùng 1 và 15 âm lịch hằng tháng. Đến mùa thu năm Minh Mạng thứ 20 (1839), nhà vua mới chuẩn định từ năm này, phàm các ngày tết Tam nguyên (gồm các ngày 15 tháng Giêng, tháng 7, tháng 10 âm lịch) và Tết Trung thu, các quan trong triều đều được miễn triều yết, cho phép được ở dinh thự tắm gội nghỉ ngơi ăn tết. Duy các quan văn từ tứ phẩm, võ từ tam phẩm trở xuống, vẫn phải túc trực như thường.
Trong các tập Ngự chế thi của vua Minh Mạng, có nhiều bài thơ về đề tài Trung thu, như bài Trung thu, Trung thu đến Doanh châu xem đèn, Trung thu trăng sáng không thưởng ngoạn, Vịnh trăng sáng đêm Trung thu, Trung thu không có trăng. Nội dung của cả 5 bài thơ trên đều cho thấy tâm tư tình cảm của vua Minh Mạng đối với đất nước: Mong cho biên thùy yên ổn, sông núi thuận dòng, người dân được vui tươi đón Trung thu. Bên cạnh đó cũng là nỗi lo của vua khi những người dân gặp tai ương, không biết Trung thu này có được vui?
Sang đến thời vua Thiệu Trị, vào năm Quý Mão, niên hiệu Thiệu Trị năm thứ 3 (1843), sử có ghi nhân dịp Tiết Trung thu. Vua đến chơi vườn Thường mậu, thưởng cho hoàng thân và quan viên đi hỗ giá các món quà gồm: Sa, đạo, nhung, trừu và tiền bạc, theo thứ bậc khác nhau.
Chi tiết việc vua chơi vườn Thường mậu vào dịp Tết Trung thu không được sử sách ghi rõ, tuy nhiên, ngay sau đó, vào dịp Tiết Trùng dương (9/9), vua Thiệu Trị lại đến chơi vườn Thường mậu, thì sử triều Nguyễn ghi chi tiết hơn rằng: Vua lên lầu Kỷ Ân, thưởng thời tiết và làm thơ, Hoàng tử Phước Tuy công chúc thọ, Hoàng tử Hồng Y, Hồng Tố dâng hồ rượu và chén rượu. Các quan đều mặc áo đẹp lạy ở Chí Thiện đường. Lễ xong, ban yến có thứ bậc.
Vua Thiệu Trị cũng định lệ tiến lễ ở điện Sùng Ân, là nơi thờ vua Minh Mạng và hoàng hậu, vào dịp Tiết Trung thu. Trước kia bộ Lễ đề xuất là chỉ có tiết Chính đán (1/1) và tiết Đoan dương (5/5) là có lễ, còn các tiết Đông chí, Tam nguyên, Thất tịch, Trung thu, Trùng dương, đều không bàn đến. Vua cho rằng điện Sùng Ân là nơi thiêng liêng hương khói, miếu điện cùng tôn, sao lại có nơi hơn, nơi kém?
Do đó, vua Thiệu Trị sai bộ Lễ lại chiếu lễ các tiết ở điện Phụng Tiên mà làm. Các quan coi về việc lễ trước đó là Trương Đăng Quế, Trương Quốc Dụng và Ngô Kim Lân đều phải phạt lương 6 tháng.
Lê Tiên Long (zing)

Có thể bạn quan tâm

Du hành với “Pleiku xưa và nay”

Du hành với “Pleiku xưa và nay”

(GLO)- Phố núi Pleiku (tỉnh Gia Lai) hơn nửa thế kỷ trước có gì thú vị? Triển lãm ảnh “Ký ức Pleiku” diễn ra tại Bảo tàng tỉnh từ ngày 24-1 đến 21-2 đưa người xem bước vào chuyến du hành trở về Pleiku xưa, thêm cơ sở so sánh với sự phát triển không ngừng của đô thị trung tâm khu vực Bắc Tây Nguyên.

Cỏ xanh về phía cũ

Cỏ xanh về phía cũ

(GLO)- Bài thơ “Cỏ xanh về phía cũ” của Vân Phi như một bức tranh ký ức trầm lắng về mái ấm gia đình, nơi thời gian dường như lặng lẽ quay trở lại qua những hình ảnh quen thuộc, giản dị thấm đượm tình cảm và ký ức sâu sắc khiến người ta thổn thức.

Người gùi hơ’mon về đâu

Người gùi hơ’mon về đâu

(GLO)- Bài thơ Người gùi hơ’mon về đâu của Vân Phi mở ra không gian đẫm hơi men rượu cần, tiếng hát lẫn trong gió khuya và những ký ức chảy trôi theo thời gian, mơ hồ giữa hiện thực và quá khứ. Tất cả như gợi lên sự tiếc nuối, khắc khoải về một giá trị của truyền thống đang dần phai nhạt.

Nhịp xoang

Nhịp xoang

(GLO)- Bài thơ "Nhịp xoang" của Nguyễn Đình Phê mang đậm hơi thở văn hóa Tây Nguyên, tái hiện không khí lễ hội cồng chiêng rộn ràng, nơi con người hòa cùng thiên nhiên và thần linh. Bài thơ không chỉ ca ngợi vẻ đẹp văn hóa mà còn truyền tải tinh thần đoàn kết, gắn bó bền chặt.

Thơ Sơn Trần: Lời hẹn

Thơ Sơn Trần: Lời hẹn

(GLO)- Bài thơ "Lời hẹn" của Sơn Trần không chỉ mô tả vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn là những hẹn ước, kỳ vọng về sự trở về, đoàn tụ, gắn kết. Hình ảnh trong thơ vừa thực tế, vừa thi vị, mang đến cho người đọc cảm nhận ấm áp về tình yêu quê hương, về sự đổi thay tươi đẹp của đất trời vào xuân.

Thơ Vân Phi: Xuân dậy thì

Thơ Vân Phi: Xuân dậy thì

(GLO)- "Xuân dậy thì" của tác giả Vân Phi mang đến những xúc cảm thanh tân về mùa xuân và tình yêu, đưa chúng ta vào không gian tràn đầy sức sống của một buổi sáng quê hương. Mùa xuân được nhen lên trên từng chồi non lộc biếc, và mùa xuân cũng bắt đầu khi tình yêu có những hồi đáp ngọt ngào...

Nụ cười Tây Nguyên

Nụ cười Tây Nguyên

(GLO)- Đi tìm nụ cười Tây Nguyên chính là tìm đến cái đẹp nguyên sơ. Nó ẩn sâu trong đôi mắt, nó hé nhìn qua đôi tay trong vũ điệu, nó giấu mình sau chiếc gùi đầy ắp lúa, bắp và nó cũng chân tình, e ấp khi nói lời thương. Nụ cười ấy hồn hậu, sâu lắng và tự nhiên như núi rừng, sông suối.

Thơ Nguyễn Thanh Mừng: Khảo cổ An Khê

Thơ Nguyễn Thanh Mừng: Khảo cổ An Khê

(GLO)- Bài thơ "Khảo cổ An Khê" như một cách "phượt" về quá khứ, về những dấu tích cổ xưa của Nguyễn Thanh Mừng. Để rồi, ở đó, tác giả lại tự "khảo cổ chính mình", khát khao tìm lại những giá trị thuần khiết, giản dị của con người và văn hóa dân tộc.

Thơ Nguyễn Đức Nam: Đừng buồn nhé, em!

Thơ Nguyễn Đức Nam: Đừng buồn nhé, em!

(GLO)- Bài thơ “Đừng buồn nhé, em!” của Nguyễn Đức Nam phản ánh một thông điệp sâu sắc về thời gian, sự thay đổi và sự chấp nhận trong cuộc sống. Tác giả dùng hình ảnh dòng sông để minh họa cho những chu kỳ trong đời người và những thăng trầm mà mỗi người phải trải qua.

Thơ Lê Vi Thủy: Mùa em

Thơ Lê Vi Thủy: Mùa em

(GLO)- Mùa xuân không chỉ đơn thuần là thời gian mà còn là biểu tượng của sự tái sinh, của tình yêu thương, sự đoàn tụ và những ước nguyện hạnh phúc. Đó cũng chính là thông điệp mà tác giả Lê Vi Thủy gửi gắm đầy nhẹ nhàng, tinh tế trong bài thơ "Mùa em". Mời các bạn cùng đọc.

Thơ Nguyễn Ngọc Hưng: Gọi xuân

Thơ Nguyễn Ngọc Hưng: Gọi xuân

(GLO)- Bài thơ "Gọi xuân" của tác giả Nguyễn Ngọc Hưng mang đậm không khí của mùa đông, song cũng là lời mời gọi, khắc khoải của mùa xuân. Từng câu thơ như một niềm khát khao về sự thay đổi, hồi sinh và tươi mới...

Thơ Lữ Hồng: Suốt mùa tuổi ngọc

Thơ Lữ Hồng: Suốt mùa tuổi ngọc

(GLO)- Mùa xuân vừa đến, cho ta cái cớ để nhìn lại chặng đường dài mình đã đi qua. Thêm một tuổi là thêm nhiều những hạnh ngộ và chia ly, nguyện ước và mong chờ. Nhưng chừng nào còn tha thiết với đời là ta còn “tuổi ngọc”. Bài thơ của tác giả Lữ Hồng dưới đây như thay lời muốn nói...

Thơ Nguyễn Ngọc Hạnh: Quê ngoại

Thơ Nguyễn Ngọc Hạnh: Quê ngoại

(GLO)- Bài thơ "Quê ngoại" của Nguyễn Ngọc Hạnh không chỉ là lời tỏ bày tình cảm quê hương mà còn là một thông điệp sâu sắc về sự gắn bó với cội nguồn. Quê hương dù có xa hay gần, luôn là một phần không thể thiếu trong cuộc đời mỗi người, là điểm tựa để chúng ta tìm về trong những lúc lạc lõng nhất.

Thơ Lê Từ Hiển: Hoa vô thường

Thơ Lê Từ Hiển: Hoa vô thường

(GLO)- "Hoa vô thường" của Lê Từ Hiển mang đậm dấu ấn của sự chiêm nghiệm về cuộc đời, sự vô thường của thời gian qua những biến chuyển của thiên nhiên. Mỗi câu thơ như một khoảnh khắc dịu dàng, mà ở đó, tác giả lặng lẽ nhìn nhận và đón nhận mọi biến động của đời sống...

Thơ Nguyễn Ngọc Hạnh: Giếng xưa

Thơ Nguyễn Ngọc Hạnh: Giếng xưa

(GLO)- Với "Giếng xưa", tác giả Nguyễn Ngọc Hạnh đã khắc họa bức tranh đầy khắc khoải, suy tư về cuộc đời. Khi thời gian lặng lẽ trôi qua, mỗi hình ảnh đều như một lời tâm sự rất riêng tư nhưng cũng thật gần gũi và đầy cảm xúc.

Cuộc thi viết “Pleiku - Khát vọng vươn lên” năm 2025 nhận tác phẩm từ ngày 20-1

Cuộc thi viết “Pleiku - Khát vọng vươn lên” năm 2025 nhận tác phẩm từ ngày 20-1

(GLO)- Nhằm tiếp tục phát huy hiệu quả công tác tuyên truyền, quảng bá hình ảnh, con người phố núi Pleiku, UBND thành phố phối hợp với Báo Gia Lai tổ chức Cuộc thi viết về chủ đề “Pleiku-Khát vọng vươn lên” năm 2025 trên các ấn phẩm của Báo Gia Lai. Ban tổ chức bắt đầu nhận bài từ ngày 20-1.